TÂM TÌNH VỚI CÁC NHÀ THƠ TRẺ
Đỗ Hoàng
Vào tháng 6, Hà Nội có đợt nắng
nóng. Điện lại bị cúp luân phiên, mọi người ca thán. Anh em gặp nhau lâu ngày
chỉ có cởi trần nhậu thôi. Đầu đợt nóng, Dương Hùng Phong mời nhậu nhân đi
Trung Quốc về, giữa đợt nóng, Đào Trung Việt mời nhậu bởi lâu ngày không gặp
nhau! Nhiều bạn Fb nhìn cảnh ở trần đùa tếu: “ Các anh nên đổi ra họ Trân hết mới
đúng!”
Dương Hùng Phong mời: “ Anh Đỗ Hoàng ngồi vào chỗ ghế salong này, chỗ chị
Hương ngồi trước lúc bị bắt!
Tôi không thể từ chối ngồi xuống,
anh em cũng thứ tự tọa lac.
Nguyễn Trần Thái vừa ở Phú Quốc
ra, Võ Ngọc Hưởng bên Thanh Tra sang. Phong tự làm tất cả món nhậu vì Phong
đang độc thân. Nhà biên kịch, viết kịch tài hoa dựng bao chương trinh cho truyền
hình Hà Nội vẫn chưa chọn được người nâng khăn sửa túi phải gửi nỗi lòng trong
nhịp phách ghi ta!
Phong nói: - Nguyễn Trần Thái nhà thư pháp, nhà thơ nhưng lại nổi tiếng
với chuyên luận “ Đỗ Hoàng & Kiều Thơ”.
Thái túm tỉm cười có vẻ khoái.
Tôi nói: “Thái viết rất ngẫu hứng không vì cấp trên, không vì tiền bạc,
vì bạn bè tự nhiên như nước chảy mây bay nên được; còn các vị khác viết cho người
chức cao, quyền trọng, lắm bạc lắm tiền nên nghe toàn mùi đồng.”
Tôi hỏi: - Chị Hương vừa được giải Văn chương của Pháp
có điện về không?
Phong đáp: - Chị Hương và em luôn liên lạc với nhau.
Võ Ngọc Hưởng: - Anh Hoàng đưa lại “Đỗ Hoàng & Kiều Thơ “của anh
Thái lên Fb cho chúng em đọc”.!
Tôi đáp: Ok
Về nhà tôi post lên và viết thêm
đề từ: “Với chuyên luận này đám văn nô Hà Minh Đức, Phan Cự Đệ, Nguyễn Đăng Mạnh,
Phong Lê ....xếp hàng xin rửa chân cho Nguyễn Trần Thái không đưọc xét duyệt”
Hôm nhậu ở nhà Đào Trung Việt gặp
Thái, Thái như mở cờ trong bụng, sướng lắm nói:
-
Tôi viết Đỗ Hoàng dịch Chinh phụ ngâm
còn hay hơn nữa.
Tôi bảo: - Post lên cho anh em
đọc, tôi sẽ đưa lên website vannghecuocsong.com
Thái nói: - Tôi đánh mất đâu rồi,
tìm chưa ra
Vũ Ngọc Hưởng: - Anh về tìm lại
đi, mất là tiếc lắm!
Cả Nguyễn Trần Thái, Vũ Ngoc
Hưởng, Đào Trung Việt…cùng nói chung một việc:
-
Bon tôi rất thích anh Đỗ Trường bên Đức
viết về anh Đỗ Hoàng. “Họ Đỗ chúng tôi ít người tài, người làm quan không nhiều,
người tài văn chương lại càng hiếm. Nhưng nếu họ Nguyễn có Nguyễn Duy, Nguyễn
Trọng Tạo; họ Trần có Trần Đăng Khoa, Trần Mạnh Hảo, thì họ Đỗ sẽ đưa Đỗ Hoàng
ra tỉ thí. Các cụ cứ ngồi vuốt râu xem nhé!”
Nhậu một hồi chán chê, tôi thong thả nói
-
Tôi ca ngợi Thái không phải rượu ca,
bia ca mà viết thật lòng, khoa học. Hôm trước tôi có nói Thái viết tự nhiên ngẫu hứng, không lệ thuộc vào
cái gì cả nên được, còn đám văn nô, đĩ bút, sách chúng chất hàng núi, tiền cũng
hàng bao mà chúng lại mất hết. Không phải tiếng thơm muôn thuở mà tiếng nhục
ngàn đời!
Như Hà Minh Đức chẳng hạn, viết về thơ Hồ Chính Minh
và Tố Hữu đều là công trình cấp nhà nước lấy tiền thuế dân. Giải thưởng Hồ Chí
Minh hai loại văn học và khoa học cũng tiền thuế dân. Được cái gì? Được cục cứt!
Văn học cũng vứt đi mà khoa học cũng vứt đi! Tôi chỉ dẫn chứng hai bài thơ ở
“Nhật ký trong tù” thì sáng ra ngay.
. Hà Minh Đức viết thơ từ thời
sinh viên, ký là Minh Thông, chả ai nhớ, chả báo nào in. Sau đó dạy học, viết
phê bình nịnh trên, nạt dưới, văn nô thời thượng thỉnh thoảng in một vài bài
thơ cũng chẳng ma nào đọc. Công trình nhà nước “Nghiên cứu về thơ Hồ Chí Minh”,
biết gì mà nghiên với cứu. Hãy đọc Hồ Tuấn Hùng nhận là cháu ruột của Hồ Tập
Chương (tin trên mạng chưa được kiểm chứng) viết:
“Ngục trung nhật ký” là thơ của một người Khách Gia.
Miêu Lạt, Đài Loan sáng tác mới sử dụng tiếng địa phương với Trung văn một cách
nhuần nhuyễn, tài hoa như thế! Người nước
ngoài dù có biết Hán ngữ khá cũng không
thể làm được!
早
一
太陽每早從牆上,
照着龍門門未開
籠裡現時還黑暗,
光明却已面前來
Tảo (1)
Thái dương mỗi tảo tòng tường thượng
Chiếu trước lung môn môn vị khai
Lung lý hiện thời hoàn hắc ám
Quang minh khước dĩ diện tiền lai.
Buổi sớm (bài 1)
Đầu tường sớm sớm vầng dương mọc,
Chiếu cửa nhà lao, cửa vẫn cài;
Trong ngục giờ đây còn tối mịt,
Ánh hồng trước mặt đã bừng soi.
Nam Trân - Xuân Thủy dịch
Chú giải:
“Lung”(籠), tiếng Khách chỉ nhà giam, phòng giam. Người Khách Gia ở Miêu Lật bị
vào nhà giam gọi là “nhập lung”(入籠), ra khỏi nhà lao gọi là “xuất
lung”(出籠), giam trong nhà lao gọi là “quan lung”(關籠). Trong khi ấy, những từ với ý nghĩa trên ở Trung văn lại được gọi là
“nhập ngục”(入獄), “xuất ngục”(出獄), “phục ngục”(服獄), hầu như không ai dùng chữ
“lung”. Trong “Nhật ký trong tù”, từ “lung” được hiểu là “nhà giam”, “nhà ngục”
hoặc “nhà tù” được sử dụng ở hơn 10 bài thơ.
Bài 16
脚閘
一
狰獰餓口似兇神,
晚晚張開把脚吞
各人被吞了右脚,
只剩左脚能屈伸
二
世間更有離奇事,
人憫争先上脚鉗
因為有鉗才得睡,
無鉗没處可安眠
Cước áp (1)
Tranh ninh ngạ khẩu tự hung thần
Vãn vãn trương khai bả cước thôn
Các nhân bị thôn liễu hữu cước
Chỉ thặng tả cước năng khuất thân.
(2)
Thế gian cánh hưu ly kỳ sự
Nhân mẫn tranh tiên thượng cước kiềm
Nhân vị hữu kiềm tài đắc thụy
Vô kiềm một xứ khả an miên.
Cái cùm
1
Dữ tợn hung thần miệng chực nhai,
Đêm đêm há hốc nuốt chân người;
Mọi người bị nuốt chân bên phải,
Co duỗi còn chân bên trái thôi.
2
Nghĩ việc trên đời kỳ lạ thật,
Cùm chân sau trước cũng tranh nhau;
Được cùm chân mới yên bề ngủ,
Không được cùm chân biết ngủ đâu?
Nam
Trân dịch
Chú giải:
Chúng tôi chọn ra 5 bài ( 16,17,22,64,109) đều có liên quan đến nhau, với
mục đích để chứng minh, cùng thuộc hệ thơ văn Hán ngữ, nhưng vì các tác giả xuất
thân từ những địa phương khác nhau nên sự vận dụng từ ngữ có những chỗ khác nhau. Ví dụ, “cước
liễu thủ khảo” (腳鐐手銬-xiềng chân còng tay). Cụm từ này, tại Trung Quốc
Đại lục là khá phổ biến, nhưng ở vào thời kỳ Nhật Bản chiếm đóng Đài Loan, người
dân ở đây hầu như không nói. “cước áp”. Giáo sư Hoàng Tranh thuộc Viện Khoa học
Xã hội Quảng Tây, giải nghĩa: “ Cước áp”(腳閘)là một loại cùm chân bằng sắt (gông sắt), xã hội
phong kiến trước đây, trong lúc áp giải phạm nhân trên đường, đề phòng họ bỏ trốn,
ban đêm đem giam vào nhà lao địa phương, khóa một chân lại, phạm nhân chỉ được
tự do một chân mà thôi.
Chúng tôi đã tra cứu “Văn sử Từ nguyên” (Từ điển Từ nguyên), “Trung văn
Đại từ điển” đều không có từ “cước áp” nên phải tạm lấy “cước liễu”(腳鐐) xem như “cước áp”. Như vậy, hiển nhiên là HCM không biết từ “cước liễu”
mà dùng từ “cước áp” thay thế. Tiếp đến bài 17 “cước kiềm”(腳鉗), bài 64 “ thủ liễu”(手鐐), đều chứng minh HCM không hiểu
cách sử dung thành ngữ Trung Quốc “cước liễu thủ khảo” mà chỉ biết “cước kiềm
thủ liễu” theo âm Khách Gia chuyển thành Trung văn tự.
Lại như: “ Vãn vãn trương khai bả cước thôn” (Đêm đêm há hốc nuốt chân
người), với từ “vãn vãn” là cách dùng khẩu ngữ Khách Gia, hàm ý chỉ mỗi buổi
chiều của ngày. Cũng như “thân thân cước” là một kiểu sử dụng đặc biệt trong
Khách Gia thoại, ý của nó là nghỉ lâu dài, còn Trung văn phổ biến là dùng “thân
thân thối”(伸伸腿) mà không dùng “thân thân cước”伸伸腳).
“Tẩy diện”(洗面) có nghĩa là “rửa má”, người Khách Gia thường
dùng “tẩy diện” mà không dùng “tẩy kiểm”(洗臉). Còn “tẩy diện” ở đây chính là “tẩy kiểm”( rửa má). Khách Gia thoại
dùng “tẩy diện” mà không dùng “tẩy kiểm” của Trung văn.”
-
Hơi dài, thế mới biết tiền thuế dân
trao cho bọn bất tài, văn nô nó xót đến chừng nào! Chúng làm sao xách dép được
cho Hồ Tuấn Hùng!
Đào Trung Việt đang tê tê chất vấn tôi một câu khá hiểm hóc:
-
Anh Đỗ Hoàng có câu thơ nào đời nhớ?
Ngẫn tò te một lúc tôi mới nói: - Thật tôi không biết đời nhớ tôi cái
gì. Nhà thơ chỉ cần đời nhớ cho một chữ là sung sướng lắm rồi! Khương Hữu Dủ loại
thơ, tự do, đường luật , dịch thuật, nhưng đời chỉ nhớ: “ Một tiếng chim kêu
sáng cả rừng” , mà chỉ có chữ”Sáng” thôi.
Vũ Ngọc Hưởng dân Tổng hợp Văn nên hưởng ứng ngay:
-
Đúng, quá đúng, Khương Hữu Dụng đời
chỉ nhớ chữ “Sáng”!
Tôi tiếp: - Tôi thì không biết đời có nhớ cho một chữ nào không nhưng bạn
bè có người nhớ một vài chữ, là có thật!,
Sinh thời nhà văn Trần Huy Quang
ít giao lưu với tôi, nhưng có một lần gặp nhau anh khen: ‘Đỗ Hoàng có hai câu
thơ sánh với Tào Tùng thời Đường. Tôi rất cảm kích! Đó là câu:
“Ngày mai không biết nới nào đánh
Nhất định có người phải chết oan!”…
Còn câu của Tào Tùng:
“Bằng quân mặc thoại phong hầu sự
Nhất tướng công thành vạn cốt khô!”….
Nhà văn Phạm Thành (đang chịu án tù) rất thích cả bài này!
Đỗ Trường ở bên Đức các bạn vừa
nhắc thích nhiều câu trong dịch Chinh phụ ngâm và Kiều Thơ. Anh thích tập thơ
Tâm sự người lính và bài “Trước tài nghệ ướp xác”
“Ai chết ngàn năm còn để xác
Thế giới hôm nay mãi sững sờ
Còn ta sống giữa đời đen bạc
Như chết nghìn năm dưới đáy mồ!”
Anh em tạp chí Nhà văn nơi tôi
công tác ngày trước khi Kiều Thơ đang dạng bản thảo rất thích đoạn kết:
“Ngẫm ra ân oán tại người
Hiền tâm, ác bá cũng nơi lòng mình
Đã rằng vì nghĩa, vì tình
Sá chi cái lũ yêu tinh hung tàn
Xưa nay dưới chốn trần gian
Núi xương, sông máu, non ngàn trắng phơi
Mệnh tài đày đọa kiếp người
Tơ duyên, nghiệp chướng nợ đời phải mang
Cứu tuyền còn chuyến đò ngang
Nợ chưa trả hết sao sang bến chiều
Càn khôn hang lạnh cô liêu
Càng gây oan trái, càng nhiều tội danh
Cõi trần mờ mịt mong manh
Con người, con ngợm cố giành giật nhau
Nhãn tiền trông thấy mà đau
Đời nay đã vậy, muôn sau thế nào
Lại mơ có những anh hào
Hùng tài đại lược chí cao phi thường
Cho Kiều không phải đoạn trường
Cho bao cây cỏ bên đường bình yên
Chỉ còn tìm đến cõi tiên
Đỗ Hoàng thử hỏi có nên dịch Kiều!” à cùng nói to: “Nên đặt tên đường Đỗ
Hoàng cạnh đường Nguyễn Du trước cổng cơ
quan ta!”
Năm 2010 khi Kiều Thơ mới in
xong, tôi đem đến Đại hội Nhà văn tặng nhà văn Lê Đăng Kháng, anh đọc lướt và
khen ngay:
“Lập công nấp váy kẻ hèn
Cổ kim sử sách ai khen bao giờ!”
Trần Quang Đạo khen “Giã từ tình
em”, dịch “Chiến thành nam” của Lý Bạch là siêu thơ!
Nguyễn Trần Thái đây đã từng
khen:
“Rửa gươm trong sóng bể dâu
Ngựa ăn cỏ máu tận đầu Thiên Sơn’
…
“Nếu có tướng tài như Lý Quảng
Âm Sơn không có ngựa Hồ rê!”
Nhiêu…nhiều nữa. Tôi tin một nhà thơ nhớ thì có nhiều người nhớ, có nhiều
người nhớ thì đời nhớ!”
Hà Nội ngày
11/6/ 2023
Đ - H