Thứ Bảy, 15 tháng 10, 2016

Tác phẩm hay do Trời ban tặng

Báo TỔ QUỐC – Điện tử - Tạp chí Nhật Lệ
VĂN HỌC QUÊ NHÀ
ĐỜI SỐNG VĂN HỌC VĂN CHƯƠNG VÀ DƯ LUẬN CHÂN DUNG ĐỐI THOẠI VĂN XUÔIGIỚI THIỆU SÁCH THƠ THƠ MỖI NGÀY TIN TỨC
Tác phẩm hay là do trời ban tặng
18-01-2008 03:58
(Toquoc)- Tôi gặp nhà thơ Đỗ Hoàng, trưởng ban biên tập thơ của Tạp chí Nhà Văn vào một ngày đầu đông, nắng vẫn vàng như rót mật. Nhìn con người nhỏ bé ấy tôi vẫn thấy toát lên sức sống căng tràn của tuổi trẻ, mặc dù ông chẳng còn trẻ chút nào.
Quán cà phê 84, Nguyễn Du sáng hôm ấy ít khách, nhân viên trong quán chắc đã quen bởi lối nói chuyện dân dã và đầy nhiệt huyết của ông, nhưng với tôi, dù đã phần nào hiểu biết về con người này vẫn không khỏi lấy làm thú vị.
Nhà thơ Đỗ Hoàng sinh ra ở miền đất Quảng Bình đầy nắng và gió với muôn vàn nỗi khó khăn, vất vả mà mảnh đất Miền Trung nào cũng phải gánh chịu. Một thời gian ông sống ở Huế, rồi tham gia chiến đấu bảo vệ tổ quốc… Qua nhiều duyên nghiệp cuối cùng ông trở thành nhà thơ, sống và làm việc như một nhà báo tại Hà Nội. Cuộc đời con người thật chẳng thể nói trước…
Gọi Đỗ Hoàng là nhà thơ thì chưa hẳn đúng vì ông viết cả tiểu thuyết và phóng sự, kí sự. Từ bài thơ đầu tiên- “Ngày mùa” được in ở báo Văn nghệ Quảng Bình cho đến nay ông đã in được sáu tập thơ, bốn tiểu thuyết và một tập phóng sự… Không nhiều một cách đặc biệt chú ý nhưng cũng đáng nể. Ông không có ý định trở thành một nhà thơ và hoạt động văn chương vì buổi đầu ông học Sư phạm Toán và đã từng là thầy giáo dạy toán. Nhưng như là mối lương duyên tiền định từ kiếp trước, niềm yêu văn chương của ông cứ le lói sáng rồi bùng lên lúc nào không biết. Những câu thơ, câu văn của ông là hiện thực về cuộc sống nơi mảnh đất ông sinh ra, là những vùng đất ông đã đi qua trong chiến tranh, là những ngày khốn cùng của đất nước… Hãy cùng đọc một vài vần thơ của ông như:
Anh đi trên trái đất cô đơn,
Gió bấc lạnh thổi tung làn ngực nở.
Xác em nằm
- Một hành tinh vứt bỏ.
Vó ngựa trường chinh lãnh đạm dẫm qua.
(“Cái chết người đẹp”- Quảng Trị 1974)
Hình ảnh xác người phụ nữ im lìm nơi chiến trường đổ nát cứ ám ảnh vào tâm trí tôi. Sao không phải là một anh lính, là một người đàn ông với cảm giác quen thuộc mỗi khi nói đến chiến tranh mà lại là một “người đẹp”. Không phải là không có những người phụ nữ nơi chiến trường nhưng hình ảnh này quả là đặc biệt, ít thấy, thậm chí chưa thấy trong văn chương. Đỗ Hoàng vừa tạo một ấn tượng về hình ảnh, lại tạo được cả ấn tượng về cảm xúc. Một thứ cảm xúc đau đớn, uất hận trong tâm hồn. Lẽ ra những hình ảnh đó sẽ không bao giờ được nói đến…
Có lẽ tâm hồn nhạy cảm cộng với những trải nghiệm thực tế khiến thơ của ông nhiều niềm đau hơn là sự vui vẻ. Nó cứ nhẹ nhàng thấm sâu vào hồn của đất, của núi, của sông rồi tâm hồn người đọc. Đối với Đỗ Hoàng văn chương chỉ là những tâm sự cần phải giãi bày từ tâm hồn nhạy cảm và nhiều băn khoăn, trăn trở của ông. Và nỗi buồn được ông định nghĩa là:
Tôi chết đi vì buồn.
Tôi sống thêm nhờ buồn.
Cũng vì buồn mà tôi yêu
Cũng vì yêu mà tôi buồn.
Tôi có thể mất đi
Nhưng buồn tồn tại.
Trái tim còn mãi!
(“Buồn”- Huế 1985)
Ông chẳng cầu kì, diêm dúa trong văn chương, cũng chẳng dùng những mĩ từ như quan điểm nghệ thuật hay tuyên ngôn nghệ thuật… Thơ của Đỗ Hoàng dung dị và thật thà. Phải chăng vì vậy mà ông có ít nhiều sự phản ứng với văn chương đương đại. Theo ông văn chương hiện nay (một bộ phận lớn) đang rơi vào tình trạng “đa ngôn và tắc tỵ” tức là họ cố làm cho ra những sự “lạ” cả về cách thể hiện cùng như cái thể hiện nhằm tạo “thương hiệu” cho mình. Nhưng khổ nỗi đâu phải cứ “lạ” là “mới”. Đỗ Hoàng phản ứng quyết liệt với những loại văn chương dung tục thái quá. “Xưa nay không có thứ bệnh hoạn nào được đồng loại chấp nhận”- nói xong lại thấy ông trầm ngâm, ưu tư. Đối với ông “viết thánh thiện mà tạo được thương hiệu mới đáng quý”. Nhưng khi tôi hỏi “Vậy ông phủ nhận hết công lao của những sáng tác trẻ ư ?” Thì ông không ngần ngại trả lời: “Không. Tôi ủng hộ. Không chỉ những người trẻ, lớp già chúng tôi cũng Đổi Mới. Văn chương phải Đổi Mới mới tồn tại được. Nhưng tôi thích sự Đổi Mới tự thân… chứ không phải cố gắng tạo ra sự “lạ” như một vài nhà thơ trẻ bây giờ. Tất nhiên không thể phủ nhận tên tuổi và sự đóng góp của những nhà thơ như: Nguyễn Hữu Hồng Minh, Phan Thị Vàng Anh, Phan Huyền Thư, Vi Thùy Linh… Và rất nhiều nhà thơ khác nữa… ”
Miền Trung cũng là một trong những cái nôi của văn chương. Ngày xưa là Chế Lan Viên, Xuân Diệu, Huy Cận… rồi đến Lâm Thị Mĩ Dạ, Thanh Thảo, Nguyễn Trọng Tạo… gần hơn nữa là Văn Cầm Hải, Lê Vĩnh Tài, Nguyễn Thanh Mừng, Trần Thị Huyền Trang… và các nhà thơ trẻ hơn thuộc thế hệ 7X, 8X… Tất cả những cái tên đó đều ít nhiều để lại trong lòng người đọc niềm yêu thích. Phải chăng ngoài sự nỗ lực của bản thân mỗi con người chúng ta còn được thừa hưởng thêm phần “di truyền” từ vùng đất nơi sinh ra và lớn lên của mình. Chẳng thế mà Nhà thơ Đỗ Hoàng luôn tự hào về mảnh đất Quảng Bình, mảnh đất anh hùng khói lửa, mảnh đất chôn rau cắt rốn, mảnh đất đã nuôi dưỡng tâm hồn ông.
Không hiểu sao Đỗ Hoàng hay gặp “tai nạn nghề nghiệp”, có lẽ vì thế nên nhiều người không biết thơ ông. Nhưng chẳng bao giờ ông chối bỏ những gì mình đã viết ra, bởi theo ông, “tác phẩm hay là do trời ban tặng”, mà cái thiên phú đâu phải ai cũng có được. Có thể bây giờ Đỗ Hoàng chưa được đông đảo người đọc biết đến nhưng ông tin và tôi tin một ngày không xa các tác phẩm của ông sẽ tự thân tỏa sáng. Như những vần thơ dung dị của ông…
Và cũng bất ngờ,
Nhặt từ bùn câu Thơ
- Thời gian không hóa thạch!
(“Nhặt từ bùn”- Huế 1982)
HƯƠNG MAI

Từ bóng râm chiến khu đến quảng trường phản tỉnh lương tri

“TÂM SỰ NGƯỜI LÍNH” TỪ BÓNG RÂM CHIẾN KHU
ĐẾN QUẢNG TRƯỜNG PHẢN TỈNH CỦA LƯƠNG TRI
( Viết về nhà thơ Đỗ Hoàng )
Nguyễn Hoàng Đức
Tôi gặp nhà thơ Đỗ Hoàng lần đầu tiên ở nhà tôi, anh đi cùng nhà văn Nguyễn Đình Chính đến để mời tôi giữ chân biên tập trang lý luận cho tạp chí Văn Học Nghệ Thuật (nhưng việc không thành). Cảm giác đầu tiên của tôi về các nhà thơ nói chung là cái gì nhũn nhẽo, ẻo lả, yếu ớt, tí tởn, ham vui, đồng bóng. Và nhà thơ Đỗ Hoàng trưởng ban biên tập thơ của Tạp chí Nhà văn dường như còn vượt qua cả mức đó, anh sinh ra ở Quảng Bình nơi người ta nói như hát, rồi đi lính vào Huế nơi hát còn nhiều hơn nói, rồi anh lại là nhà thơ ngâm nga lới lơ, thành thử giọng của anh cứ võng võng ngòn ngọt một thứ chè nhão cho quá nhiều đường… thành thử sau khi gặp vài lần tôi cứ mặc định, lại một ông nhà thơ hâm hấp không nên chấp.
Thời gian sau, đặc biệt khi anh gọi với tôi, tôi dừng lại một cách khiên cưỡng gượng gạo có chút kiêu kỳ. Tôi đã cầm cuốn thơ dịch “Chinh Phụ Ngâm” của anh. Mặc dù trước đó tôi đã nghe và đọc những bài thơ anh dịch lại cả tiếng Việt, tôi vẫn cho là thứ “thừa công rồi nghề”. Tôi đọc “Chinh Phụ Ngâm” của anh với ý định: hãy cố bỏ chút đỉnh thời gian xem tay này công phá thần tượng ra sao? Triết gia Nietzsche có nói: “Rồi một ngày học trò sẽ phản thầy, vì chính học trò cũng có sứ mệnh phải làm thầy”. Đọc xong, tôi ngạc nhiên vì nhà thơ Đỗ Hoàng ít nhất là đã luôn bới việc thơ ra để làm với một tình yêu tự nhiên không thể nào sống nổi nếu không hít thở thơ. Thứ hai, anh đã dám cày xới lại luống cày đã định hình của các thần tượng để làm nên vụ mùa mới của mình.
Thời gian trôi đi không lâu, tôi nhận thấy trong con người của Đỗ Hoàng không đơn giản là một tâm hồn ngê nga thơ phú kiểu chè đường, mà là một con người rất có bản lĩnh thơ. Rất cứng rắn! Rất dũng cảm! Và hôm nay tôi quyết định viết về anh sau khi đã đọc tập thơ phản chiến rất sớm của anh có tên “Tâm sự người lính”. Cây nào quả nấy, chúng ta thử xem cái cây Đỗ Hoàng là gì?
Đỗ Hoàng trước hết khá giỏi tiếng Trung, có cả kho tàng thơ cổ trong người. Tôi đã nghe anh nói tiếng Anh, bình thơ có tiếng Pháp, lại còn nhắn tin cho tôi bằng tiếng Nga. Riêng về vốn thơ, tôi gặp ba người làm tôi đáng nể và luôn cho rằng họ giầu vốn thơ nhất Việt Nam, đó là, Đỗ Hoàng, Nguyễn Hưng Quốc và Trần Mạnh Hảo.

Nhà thơ Đỗ Hoàng và tập thơ Tâm sự người lính
Đó mới là vốn thơ! Nhưng còn ý chí thơ, sức sống thơ, và bản lĩnh thơ. Đỗ Hoàng là một quan chức thơ sống giữa môi trường thơ mậu dịch, vậy mà anh dám sống và sáng tác, bình thơ như một người cô đơn. Cô đơn là một cái gì hết sức tê tái đặc biệt là trong nền văn hóa tiểu nông cực kỳ lạc hậu và bè phái của Việt Nam. Nhà thơ, nhà văn hóa Inrasara đã nói, các nhà thơ Việt rất sợ bị cô đơn và cô lập. Chúng ta biết trong nền văn hóa tiểu nông giầu tính cục bộ đố kỵ của nước nhà, người ta dễ dàng bỏ rơi tập đoàn, đánh hội đồng vào cá nhân nào muốn có cá tính hay định chơi chòi. Người ta có thể đồng loạt yêu, đồng loạt ghét, đồng loạt bao vây, nhất quán trong cả hành động cô lập hiếu – hỉ, đăng bài hay rút bài… tóm lại rất tiểu nhân. Vậy mà Đỗ Hoàng dám phê phán nhiều nhà thơ, nền thơ bằng cách không ngại chỉ tận tay day tận trán, như: “…cái Văn chương Mậu Dịch dở hơi ngự trị văn đàn hơn 5 thập kỷ. Ai cũng biết nhưng không ai dám nói. Nguyễn Hoàng Đức đập Thanh Thảo là để đập vào nghìn thế hệ nói leo ăn theo, khen bừa, khen ẩu, nói láo. Tệ hại nhất là những tiến sỹ bò, học giả, học thật như Đỗ Lai Thúy, Hồ Thế Hà, Phạm Quang Trung, Văn Giá, Chu Văn Sơn và ông thấp học Phạm Xuân Nguyên không làm được cái tiến sỹ Vịt…”

Trước khi nói về thơ Đỗ Hoàng, tôi muốn bàn qua về bút pháp kẻo lại rơi vào tùy tiện khen – chê không chuẩn đích:
1- Tầm vóc của nhà thơ (cả nhà văn, và các loại nhà) được xác định đầu tiên bằng tính đề tài. Đề tài chim, hoa, cá, lá, gái thì không thể lớn bằng đề tài của thế giới, con người, chiến tranh hay hòa bình. Đề tài sinh họat vi mô ăn ngủ hút hít gái gú thì không thể bằng các đề tài đầu tiên đó là Sinh – Tử của con người.
2- Thơ hay không phải cứ viết bằng bút pháp phóng đại bột nở vống lên. Thơ hay luôn phải được dùng cái hư cấu kết hợp với tính chân thực. Chẳng hạn hai câu thơ vào loại hay nhất của Tây và Đông:
“Anh cùng tôi không một xu dính túi
Vẫn mua được hương thơm của cả trái đất này” (Whitman)
Hoặc:
“Mái chèo cắt vòm trời trên sóng biếc
Thuyền lướt lên trăng theo dòng nước nổi” (Giả Đảo)

Đỗ Hoàng là một người lính, nhưng thơ anh không chỉ đơn giản hành quân ra chiến trường để nhằm bắn và đếm xác cả quân thù lẫn quân ta. Nhà văn Bảo Ninh đã từng được báo chí phương Tây đánh giá rất cao khi gọi là “cuộc phản tỉnh đầu tiên của chiến tranh” ( The first reflexion of the war). Họ đánh giá cao vì cho đó là một ngoại lệ khác hẳn các nhà văn ăn tem phiếu chỉ viết theo định hướng ta đỏ địch đen, ta tốt địch xấu, ta chính nghĩa địch phi nghĩa, ta khôn ngoan địch nham hiểm, ta to địch bé, ta trước địch sau, ta chiến thắng vinh quang địch thất bại ê chề. Vậy thì có lẽ Đỗ Hoàng là một trong những nhà thơ hàng đầu đồ sộ viết về phản chiến.
Triết gia Kant có lẽ là người đầu tiên nêu ra khái niệm “Công dân nhân loại”. Công dân đó là người đã vượt khỏi lằn ranh biên giới, con người ai cũng là người, khi ngã xuống thì đều là một nhân mạng thiệt vong, người lính nông dân ở phía Bắc bắn chết người lính nông dân ở phía Nam, rõ ràng cả hai người chỉ làm theo mệnh lệnh của cấp trên, họ đều là giai cấp nông dân, không có chuyện họ là kẻ thù giai cấp của nhau.
Trong tâm hồn nhà thơ Đỗ Hoàng, mối ưu tư về nhân loại bao giờ cũng lên cao nhất, nó không chỉ là đỉnh cao mà là hệ thống, là con đường dằng dặc chạy lên đỉnh, chứ không phải mấy thoáng chốc bồng bột vu vơ. Đỗ Hoàng ưu tư và bộc bạch, sợ rằng con người sẽ quên đi bài học mất mát của chiến tranh:
Khi chiến tranh đi xa,
Cuộc đời hồi sinh lại.
Đã ai hiểu cho mà,
Có một thời dữ dội!
Thơ tôi rồi sẽ chết,
Như cuộc đời của tôi.
Qua tháng năm trận mạc,
Thời gian quên con người!
( THỜI GIAN QUÊN 11 – 1973)
Mối ưu tư của Đỗ Hoàng thường gắn với những gì kỳ vĩ, những nhãn quan vũ trụ, những suy nghĩ gắn liền với nguyên lý sống còn:
NGỦ QUÊN

Không có mặt trời,
Trái đất ngủ quên.
Trong triệu năm băng giá!
Không có con thuyền,
Dòng sông ngủ quên.
Và tự xoá mình khi về biển cả!
Không có người­ đi,
Con đ­ường ngủ quên .
Rồi cũng tan vào cây cỏ!
Không có tình yêu,
Trái tim
ngủ quên.
Huế 1983
Anh ra trận với một cây súng dường như cũng không có được giấc ngủ thiếp lịm của sắt thép vô tri mà nó luôn ưu tư vì sự điểm hỏa của mình. Ưu tư về một chiến trường nằm giữa hố thẳm yêu bạo lực của cả một thế giới còn hiếu sát. Vì suy tư trên tầm rộng lớn nên lời thơ của anh rất hào sảng mạnh mẽ:
Tôi đã hành quân dã chiến dưới đáy cuộc đời lớp lớp chiến binh.
Mới nhìn rõ trái tim đen ngòm hơn họng súng.
Mới biết chẳng có gì tốt đẹp như những triết lý rơm nghìn đời mộng tưởng.
Mỗi một ngày trái tim thêm nỗi đau thương!
Nghĩ về cuộc đời hôm nay
Người lính không thể dửng dưng.
Không thể hướng nòng súng mình theo những lời giả dối.
Không thể dại khờ hành quân đi tới
Tử địa chiến trường bờ vực của chiến tranh!
( NGHĨ VỀ CUỘC ĐỜI HÔM NAY)

Tình yêu và thương xót trong chiến tranh mới chỉ là cảm xúc thuần túy giành cho những gì đã mất ở cấp độ tình cảm, nhưng để có phản tỉnh người ta đã phải leo lên rất cao ở tầng lý trí. Chính Đỗ Hoàng đã bày tỏ cuộc sống suy tư trong sáng tạo của mình:
Tôi đã đi đến cái thực chất bên trong của cuộc chến đời này
Cái thực chất mà sử sách, thơ văn đương kim người ta chưa hề nói đến.
Mặc dù báo chí, loa đài ra rả suốt ngày đêm.
Cuộc đời ơi! Chẳng có gì quý mến
Nếu con người chẳng có nghĩ suy riêng!
( THỰC CHẤT CUỘC CHIÊN)

Cái nhìn đầu tiên của Đỗ Hoàng dường như luôn có tầm nhìn bao quát ở trên cao, trước khi nhìn thấy đồng đội của mình anh luôn thấy số phận của nhân loại đang lầm than mất mát trong chiến tranh. Một người lính ngã xuống dù ở bên nào liệu khi biết tin mẹ anh ta có đau xót không ? Và chính lô gic đó Đỗ Hoàng luôn nhìn xa trông rộng về một thế giới phủ bóng tang thương qua nhiều biên giới chiến tranh :

Đêm nay ai không ngủ?
Nghĩ số phận loài người.
Hận thù đang còn ngự,
Mấy triệu đời chưa thôi!

Trái đất đen một nửa,
Bom đạn găm đầy mình.
Những đường gươm ly loạn,
Đang chém nát hành tinh!
( SỐ PHẬN LOÀI NGƯỜI)
Đỗ Hoàng đã đặt ra cho mình cũng như loài người những câu hỏi rất lớn, những câu hỏi mang tầm vĩ mô, hỏi về con người với bản tính đầu tiên, xem có phải đó là thứ tâm hồn hiếu sát chỉ đòi ăn thịt đồng loại:
bao nhiêu triệu năm ta mới có được chữ Người
- dẫn ta tới những tình yêu kỳ lạ
- dẫn Ta tới cái căm hờn nghiệt ngã
trên hành tinh này nửa trắng, nửa đen.
( LOÀI NGƯỜI)
Sau câu hỏi về thế giới tồn tại trong không gian là câu hỏi về thời gian, về thời đại mà tác giả đang sống và hành quân, về những trận chiến làm đổ máu những người lính cả quân ta lẫn công dân nhân loại. Bên này hay bên kia chiến tuyến ư, họ chẳng là những con người sao ?
thế kỷ hai mươi
con người ở đâu cũng tàn ác như nhau!
đâu phân biệt bên kia bờ chiến tuyến!
đất bằng này
sẵn súng, sẵn dao
sẵn những lời đổi đen ra trắng!
cái chết ở đây
nào có khác gì.
phát súng bên này, phát súng bên kia.
( THẾ KỶ HAI MƯƠI )
Đỗ Hoàng giành cho những đồng đội của mình cái nhìn thật yêu thương và trìu mến. thậm chí một nỗi đau còn đến trước nỗi đau:

Lính lại vào đầy bến.
Chỗ chuyển quân bầm tím cả chân trời
Mùa đông đi ra trận,
Có ánh mắt nào vui!
Và:
Ngày mai không biết nơi nào đánh?
Nhất định có người phải chết oan!
Một cái nhìn không chỉ lo lắng việc sinh tử mà còn là thứ tình cảm tàn phai trống vắng hoang vu phía tình yêu. Một cái gì thật xót xa:
Anh hành quân qua những lề đời chật hẹp.
Nắng phai màu quân phục trái tim anh.
Và em ạ ! Em đừng thương tưởng tiếc.
Một con người trong đời lính chiến chinh!
Đỗ Hoàng suy tư rốt ráo về kết cục của cuộc chiến, kẻ thì chết, người trở về thì khánh kiệt sức lực và mất mát. Một mất mát không nằm trong chi thể mà còn bị vắt kiệt trong cả mơ ước. Một làng quê không còn ánh lửa thắp lên nghĩa là dường như khống có cả ánh sáng cho tư duy, còn người lính rệu rã quay về liệu có còn sinh lực cho những ước mơ ?
mẹ hiền đón anh,
một người trọng bệnh.
qua vạn năm chưa ai chữa cho lành!
bây giờ anh không muốn tìm về người thân,
bởi sức lực trong anh đã kiệt.
tuổi yêu đương ngày xưa đánh mất,
trái tim vết chém u bầm!
phía quê nhà không một ánh lửa thắp lên.
bom đạn xáo trộn cày sông bến.
người lính tần ngần như kẻ chưa hồi sinh sự sống,
nhìn tầng mây ngơ ngác giữa trời quê.
chiến tranh,
chiến tranh
là thế kia!
lứa tuổi yêu đương không còn mơ ước.

( TÂM SỰ NGƯỜI LÍNH )
Lãnh tụ Stalin có nói: chiến tranh, chết chóc nhiều khi chỉ là những con số thống kê. Nhưng nhà thơ Đỗ Hoàng không nghĩ vậy, cái nhìn của anh là một nhà thơ phải mang tính nhân văn, thơ anh dường như bao sân đến tất cả những người lính, những khía cạnh vất vả, gian lao, hy sinh, và anh không quên giành cái nhìn thật thương xót cho những cô gái chân yếu tay mềm, cành vàng lá ngọc phải lấm láp cát bụi khói lửa và hy sinh tàn khốc của chiến trường. Trong bài “Lính Gái” anh viết:
Đoàn lính gái áo quần còn mới
Lứa lính này đưa tới miền trong.
Họ không hề bị đeo gông,
Mà sao ánh mắt mênh mông nỗi buồn!
Xương trắng phơi nẻo ra tiền tuyến
Mồ gái tơ diều liệng, chồn giay!.
Lớp này rồi lớp khác thay,
Màu cờ lau trắng rợn lay sa trường!
Và cái chết sẽ chờ mọi lối,
Trên con đường dẫn tới miền trong.
Chiến tranh dai dẳng chưa xong.
Còn bao nhiêu chuyện đau lòng xảy ra!

Rồi Đỗ Hoàng khóc than cho một người đẹp ngã xuống bằng một khúc bi ca thật trữ tình tráng lệ. Một tiếng khóc khiến người ta thấy chiến tranh đã tàn hủy và tiêu diệt cả cái đẹp đau xót hoài phí đến nhường nào:
CÁI CHẾT NGƯỜI ĐẸP

Em chết rồi.
Người đẹp!
Viên đạn của thế kỷ nào bắn em?
Anh sững sờ giữa trái đất máu đổ.
Xác em nằm trong huyền ảo xa xôi.
Anh đi trên trái đất cô đơn.
Gió bấc lạnh thổi tung làn ngực nở.
Xác em nằm
Một hành tinh vứt bỏ.
Vó ngựa trường chinh lãnh đạm dẫm qua.

Anh không thể nào viết nỗi lời thơ.
Khóc em để loài người nguyền rủa!
Trong vô biên
Mạng em thua hạt cỏ.
Khóc em
Anh phản lại Trường Tồn!
Chiến trường Quảng Trị tháng 1 – 1974
Người Việt có câu: có cứng mới đứng đầu gió, với vốn liếng văn hóa dạn dầy, dài rộng, sâu lắng, và thi ca kim cổ đông tây đồ sộ, lại mang một tầm nhìn lớn cho thơ, một tầm vóc hoành tráng cho chữ nghĩa, làm gì Đỗ Hoàng chẳng tự tin và dám tả xung hữu đột đối mặt với lực lượng làm thơ mậu dịch đông rinh ríc. Có một phát hiện mới của loài người rằng: sáng tạo là việc của cá nhân chứ không phải làm việc là sản phẩm của đám đông. Hàng nghìn, hàng vạn người làm việc cũng không thể được gọi là sáng tác mà đó chỉ là sản xuất. Chính thế văn thơ bao cấp nhiều khi chỉ là chỗ không người. tôi vừa chia sẻ sự cô lập của Đỗ Hoàng vừa buộc phải thán phục anh. Nếu không có tâm hồn chịu sóng gió cô lập trước đám đông vần vèo nhũn nhẽo thì làm sao có được một Đỗ Hoàng thơ ca hoành tráng như vậy, dám làm một cây bút hàng đầu phản tỉnh lại cuộc chiến “nồi da sáo thịt”?! Bái phục! Bái phục!
NHĐ 30/94/2013

Thứ Hai, 26 tháng 9, 2016

Học đạo đức nó làm gì?

Do Hoang
HỌC ĐẠO ĐỨC NÓ LÀM GÌ?
Những kẻ ác nhất trần gian
Hoc đạo đức nó để tan địa cầu!
Ha Noi 26 - 9- 2016
D - H
1- Thien Vu
2- Hitle
10 người độc ác và tàn bạo nhất lịch sử nhân loại
Trong lịch sử loài người, có rất nhiều những kẻ tàn bạo, đáng sợ. Nhưng trong bài viết này, chúng tôi sẽ đưa ra một danh sách tổng hợp những người đàn ông ác nhất trong lịch sử. Ác ở đây không chỉ bao gồm việc tàn sát mà còn dựa trên những tác động xấu, sự tàn bạo mà họ đã gây ra cho cả xã hội. Sẽ có những ý kiến trái chiều vì những nhân vật này hoàn toàn cũng có đóng góp của họ. Nhưng về mặt khách quan, họ đã gây ra những hậu quả xấu trên quy mô lớn.
10. Thiền vu Hung Nô Attila
[​IMG]​
Cái tên đầu tiên trong danh sách đến từ xứ sở Hung Nô hoang dại. Attila hay còn được người châu Âu là Attila Rợ Hung, mang biệt hiệu "Ngọn roi của Thượng đế" hoặc "tai họa của trời", là Thiền Vu của Đế quốc Hung Nô từ năm 434 đến năm 453. Đối với Hung Nô thì ông là một người niềm tự hào, ông đã lãnh đại đế chế Hunnic trải dài từ Đức đến sông Ural và sông Danube tới biển Baltic. Nhưng với nền văn minh Tây Âu ông hiện thân là một kẻ tham lam và tàn bạo bậc nhất.
Ông đã chinh phạt khắp các chiến trận, từ vùng Balkan đén tận phát, thậm chí còn suýt chiếm được Đông La Mã. Tuy nhiên một dịch bệnh đã ngăn trở thành công của ông. Trên những con đường mình đi qua, ông ta đã cướp bóc và tàn sát rất nhiều người. Những cuộc thanh trừng của ông khiến cho bao kẻ nước mất nhà tan, phải sống một cuộc đời nô lệ phục vụ cho quân đội của vị vua tàn bạo. Ông còn được biết đến qua câu nói thể hiện tư tưởng tận diệt : "Nơi nào vó ngựa của ta đi qua, ở đó cỏ không còn mọc được nữa”.
Nhưng cuối cùng, trớ trêu thay vị hoàng đế đầy quyền lực này lại chết vì chảy máu cam trong tiệc cưới của chính mình.
9. Maximilien Robespierre
[​IMG]​
Nhiều người sẽ vô cùng thắc mắc và phản đối khi tên nhà lãnh đạo khởi nghĩa pháp lại có trong danh sách này. Ông là nghị sĩ của đẳng cấp thứ 3, đẳng cấp của tư sản và nông dân trong xã hội Pháp. Ông nổi tiếng qua những lời lẽ sắc bén và ý kiến sâu sắc. Năm 1789, ông tham gia cách mạng Pháp với tinh thần trách nhiệm cao và ý thức phục vụ nhân dân. Nhân dân Pháp tôn ông là "bạn của người nghèo", "lãnh tụ không thể mua chuộc”.
Tuy nhiên rằng trong cuộc đời cách mạng của mình, ông đã có những sai lầm nhất định. Ông là người đứng sau những cuộc hành quyết hàng loạt sau cách mạng lấy đi mạng sống của nhiều người vô tội. Số người chết dao động trong khoảng từ 18500 đến 40000 người, có rất nhiều người vô tội. Trong đó có khoảng 8% quý tốc, 6% giáo sĩ, 14% ở tầng lớp trung lưu và 70% là công nông dân. Những người này đều bị buộc các tội như tích trữ, đào ngũ, nổi loạn, … Đặc biệt trong số những người bị kết tội oan có nhà bác học nổi tiếng Antoine Laurent Lavoisier. Ông đã mất dần sự ủng hộ của nhân dân.
Cuối cùng thì ông cũng bị bắt và xử tử khi mới chỉ 36 tuổi bởi những người phản cách mạng.
8. Ruhollah Khomeini
[​IMG]​
Khomeini là một nhà lãnh đạo tôn giáo và chính trị gia người Iran, người lãnh đạo cuộc Cách mạng Iran 1979 trong đó chứng kiến sự lật đổ của Mohammad Reza Pahlavi, vị Shah cuối cùng của Iran. Sau cuộc cách mạng và một cuộc trưng cầu dân ý toàn quốc, Khomeini trở thành Lãnh đạo Tối cao của Iran - một vị trí có quyền lực tối cao cả về chính trị lẫn tôn giáo của quốc gia được hiến pháp đặt ra, cho tới khi ông qua đời. Trong thời gian lãnh đạo, ông đã thực thi luật Sharia ( luật hành vi hoặc luật tôn giáo của Hồi giáo) với những quy định về quần áo, ăn uống bắt buộc. Ai chống lại sẽ bị xử bởi những hình phạt khắc nghiệt. Trong cuộc nói chuyện tại trường Fayzieah ở Qom, ngày 30 tháng 8 năm 1979, Khomeini cho biết : “Những kẻ giả danh dân chủ để mang lại sự tàn phá cho đất nước này sẽ phải bị đàn áp và treo cổ”.
Ở trong nước ông rất được ủng hộ và tôn thờ nhưng ở nước ngoài, ông được biết nhiều vì sự ủng hộ những người bắt cóc con tin trong suốt cuộc Khủng hoảng Con tin Iran và lời kêu gọi fatwa (bản án) cho cái chết của công dân Anh Salman Rushdie.
Trong vụ thảm sát các tù nhân của Iran năm 1988, Khomeini đã ra lệnh cho tòa án ra phán quyết cho các tù nhân chính trị và giết những người chống lại chế độ. Hàng ngàn người đã phải chết, theo cuốn hồi ký của Grand Ayatullah Hossein Ali Montazeri thì số người chết lên đến con số 30.000.
Khomeini qua đời vì bệnh ung thư vào ngày thứ Bảy , 04 tháng Sáu năm 1989 ở tuổi 86.
7. Idi Amin
[​IMG]​
Idi Amin là một nhà chính trị và đã từng giữ chức tổng thống Uganda. Amin đã gia nhập quân đội thực dân Anh năm 1946 và đã được thăng lên đến hàm trung tướng và tư lệnh quân đội Uganda. Ông đã lên nắm quyền sau vụ đảo chính quân sự tháng 1 năm 1971, phế bỏ Milton Obote.
Trong thời kì của mình, ông đã ông đã đàn áp chính trị, lạm dụng nhân quyền và hành quyết các dân tộc khác, trục xuất người Ấn Độ ra khỏi Uganda. Số lượng người chết trong chế độ của ông chưa được xác định rõ nhưng được ước tính trong khoảng từ 80.000 đến 500.000 người. Ngày 04 tháng 8 năm 1972 , Amin đã ban hành một sắc lệnh trục xuất 60.000 người châu Á không phải là công dân Uganda.
Amin cuối cùng đã bị lật đổ, nhưng cho đến khi qua đời ông ta vẫn không hề bày tỏ sự hối hận vì đã lạm dụng chế độ cũng như những cái chết do ông gây ra.
6. Leopold II của Bỉ
[​IMG]​
Leopold II đã lập ra thứ được gọi là “Nhà nước Tự do Congo” (một quốc gia-doanh nghiệp của riêng ông). Mục đích của ông là để trích xuất cao su và ngà voi trong khu vực này. Việc sản xuất dựa trên cưỡng bức lao động, tàn sát … nhà nước Tự do Congo chìm trong cảnh khủng bố, giết chóc hàng loạt, săn người làm nô lệ.
Chế độ Nhà nước tự do Congo đã gây phẫn nộ trong dư luận quốc tế. Leopold đã cai trị vùng đất lớn hơn cả diện tích nước Bỉ và áp bức người dân ở đây bằng quân đội. Những lao động ở đây bị tra tấn, tàn sát dã man, họ bị chặt tay, chân khi không nghe lời... Con số nạn nhân ước tính khoảng từ 5 đến 20 triệu, số người chết là 3 triệu người.
Năm 1908, trong một hành động xoa dịu sự phản đối quốc tế về tính tàn bạo của Nhà nước Tự do Congo, chính quyền Bỉ đã đồng ý sáp nhập nơi đây thành một thuộc địa, là lập tức đổi tên thành Congo thuộc Bỉ. Tháng 12 năm 1909, Leopold II qua đời tại Laeken.
5. Pol Pot
[​IMG]​
Nhân vật này hẳn chẳng còn xa lạ với chúng ta nữa. Tội ác của vị thủ lĩnh Khmer đỏ đến nay vẫn còn được nhắc đến rất nhiều. Tên thật là Saloth Sar, được biết đến dưới cái tên Pol Pot, là người lãnh đạo đảng cộng sản Khmer Đỏ và là thủ tướng Campuchia từ 1976 đến 1979, cầm quyền không chính thức từ giữa năm 1975.
Ông ta đã lãnh đạo đất nước theo hướng nông nghiệp một cách cực đoan. Tất cả các cư dân thành phố được chuyển tới các vùng nông thôn để làm việc trong các trang trại tập thể. Việc lao động ở đây là sự kết hợp của lao động cưỡng bức, nô lệ, chăm sóc y tế kém, suy dinh dưỡng và hành quyết.
Chế độ Pol Pot đã giết hại từ 1,5 tới 2,3 triệu người trong giai đoạn 1975-1979, trong tổng dân số gần 8 triệu (26% dân số). Mục tiêu của chế độ là các nhà sư Phật giáo, những trí thức có ảnh hưởng phương tây, những người có vẻ là trí thức (như những người đeo kính), những người tàn tật, các dân tộc thiểu số như Lào và Việt Nam.
Lãnh đạo Khmer Đỏ khoe khoang rằng chỉ một hay hai triệu người trong số dân chúng toàn cuộc là cần thiết để xây dựng một xã hội điền địa cộng sản không tưởng. Đối với những người khác, thì theo câu châm ngôn, "sống cũng chẳng được gì; chết cũng chẳng mất gì. Hàng trăm ngàn người đã bị xiềng xích, bị buộc phải đào mồ chôn chính mình. Sau đó các binh sĩ Khmer Đỏ đánh họ đến chết bằng những thanh sắt và những cái cuốc hay chôn sống họ. Một chỉ thị của Khmer Đỏ về việc giết chóc đã ra lệnh, "Không được làm phí đạn dược" . Khmer Đỏ từ chối những lời đề nghị viện trợ nhân đạo, một quyết định cho thấy là một thảm hoạ nhân đạo, khi hàng triệu người đã chết đói và vì phải làm việc quá sức ở vùng nông thôn. (nguồn : Wikipedia)
Pol Pot mất ngày 15 tháng 4 năm 1998.
4. Vlad III Ţepeş
[​IMG]​
Vlad III của Ru-ma-ni (còn được gọi là Vlad Impaler, Dracula) là một vị Vương công của xứ Wallachia (phía nam Romania). Ông đã trị vì ba lần: trong các năm 1448, 1456 - 1462, và 1476. Ông ta được biết đến như một huyền thoại với cuộc sống lập dị, tính cách tàn bạo và những màn tra tấn cực kì tàn nhẫn được áp dụng trong triều đại của mình. Người ta tin rằng, tên tuổi của Vương công Vlad III đã ảnh hưởng đến hình ảnh con ma cà rồng trong tiểu thuyết Dracula của Bram Stoker vào năm 1897.
Dracula còn được gọi là Ţepeş nghĩa là Kẻ xiên người vì một trong những hình phạt là đóng cọ xuyên người. Ngoài ra còn có một phương pháp nổi tiếng nữa là phanh thây bằng ngựa … ngoài ra danh sách những hình thức tra tấn của ông còn dài dằng dặc với đủ các loại hình thức kinh tởm nhất. Có thông tin rằng chỉ riêng trong năm 1460 đã có 10.000 người bị Vlad tra tấn chết.
Theo lịch sử thì cha ông là hoàng thân xứ Wallachia và ở tại cung điện Tirgoviste. Năm 1442, vì lý do chính trị, Dracula và em trai đã bị vua Murad II bắt giữ làm con tin tại Đế quốc Thổ Nhĩ Kỳ cho tới năm 1448. Chính cuộc sống cầm tù chính trị, trong thời gian này đã đóng một vai trò quan trọng trong nhận thức của Dracula và cũng là thời kỳ hình thành cái nhìn bi quan về cuộc sống. Sau khi được thả thì Vlad III đã trả thù cho anh trai và cha (đã chết trong một vụ ám sát) bằng việc giết và đóng cọc toàn bộ những người có liên quan.
3. Ivan bạo chúa
[​IMG]​
Ivan IV là nhà cầm quyền đầu tiên của nước Nga chính thức xưng Sa hoàng. Trong thời gian cầm quyền kéo dài của mình ông đã chinh phục Tartar và Xibia cũng như chuyển nước Nga trở thành một quốc gia đa sắc tộc và đa tôn giáo. Trong lịch sử Nga, vị Nga hoàng này đơn giản được gọi là Ivan Bạo chúa hay Ivan Hung Đế vì những điều độc ác và tàn bạo từ ông.
Thời kì đầu, ông cai trị và sát nhập đất nước trong hòa bình. Nhưng đến thời kì cuối, do nhiều biến cố không mong muốn, ông dần trở nên mất ổn định và trở nên bạo lực. Những kẻ trung thành với ông đã đốt phá và cướp bóc thành phố cùng các làng mạc. Có thể tới 60.000 người đã bị giết hại trong vụ Thảm sát Novgorod nổi tiếng năm 1570. Năm 1581, Ivan đã đánh cô con dâu đang mang thai của mình vì tội mặc quần áo khiếm nhã, có thể đây là nguyên nhân khiến cô bị sảy thai. Con trai ông, cũng tên là Ivan, khi biết tin này đã lao vào một cuộc tranh cãi nảy lửa với cha, cuộc tranh cãi kết thúc khi Ivan dùng cây gậy nhọn đánh vào đầu con mình, gây ra cái chết của người con trai. Sự kiện này đã được thể hiện trong bức tranh nổi tiếng của Ilya Repin, Ivan Bạo chúa và con trai Ivan vào thứ Sáu, 16 tháng 11 năm 1581 nổi tiếng hơn với tên gọi Ivan Bạo chúa giết con trai.
Ông mất ngày 18 tháng 3 năm 1584 khi đang chơi cờ. Nhưng giới khoa học có những nghi ngờ về việc ông bị đầu độc thủy ngân.
2. Adolf Hitler
[​IMG]​
Danh sách này không thể thiếu đi Hitler, vị Quốc trưởng gây ra nạn diệt chủng Do thái và khơi ngòi chiến tranh thế giới thứ 2. Adolf Hitler được bổ nhiệm làm tướng Đức vào năm 1933, trở thành Quốc trưởng vào năm 1934 khi chiến tranh kết thúc năm 1945.
Chính sách của Hitler là xâm chiếm lãnh thổ và chinh phục chủng tộc đã xem lại sự diệt chủng hàng loạt. Vào năm 1939, có khoảng 10 triệu người Do Thái sống trên những lãnh thổ bị lực lượng của Hitler chiếm đóng. Dù theo ước lượng nào, điều chắc chắn là phân nửa số người này đã bị Quốc xã sát hại. Đấy là hệ lụy chung cuộc và cái giá ghê gớm của sự lầm lạc mà nhà lãnh đạo Quốc xã truyền tải đến - hoặc chia sẻ với - nhiều người đi theo ông ta.
Hitler đã tự tử bằng súng vào ngày 30 tháng 4 năm 1945, dưới boongke riêng của mình.
1. Josef Stalin
[​IMG]​
Stalin là Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Liên Xô từ năm 1922 đến năm mất 1953. Stalin còn là Tổng tư lệnh quân đội, hàm Đại nguyên soái Liên Xô. Ông là nhà lãnh đạo tối cao của Liên bang Xô viết từ giữa thập niên 1920 cho đến khi qua đời. Ông có công lãnh đạo Liên Xô giành thắng lợi trong cuộc Chiến tranh Xô-Đức, cũng như đưa Liên Xô trở thành một siêu cường thế giới. Tuy nhiên, ông cũng bị phê phán vì những chính sách sai lầm và tệ sùng bái cá nhân, và được xem là một nhà độc tài.
Dưới sự cầm quyền của Stalin, Ukraine đã phải chịu một nạn đói kinh khủng, ước tính số người chết từ 2,5 đến 10 triệu người. Nguyên nhân nạn đói này là do những quyết định chính trị và hành chính của nhà độc tài. Stalin đã ra lệnh thực hiện vụ thảm sát Katyn, bắn chết hàng ngàn sĩ quan Ba Lan bị bắt trong cuộc chiến thế giới lần thứ Hai khi Liên Xô cùng Đức Quốc Xã tấn công Ba Lan. Stalin sử dụng các phương pháp điều hành cứng rắn, bao gồm cả khủng bố nhà nước trong thời kỳ đại thanh trừng, theo ước tính từ tháng 08/1937 đến tháng 10/1938, chỉ riêng trong nhà tù tại Ủy ban an ninh quốc gia, chế độ Stalin đã bắn bỏ 20.760 người, trong đó có khoảng 1000 người lãnh đạo tôn giáo.
Tổng số người bị sát hại dưới chế độ cầm quyền của ông nay được ước tỉnh khoảng từ 10 đến 60 triệu.
Bổ sung: Hirohito
[​IMG]​
Được biết dưới tên Thiên Hoàng Chiêu Hòa, ông là Nhật Hoàng của Nhật Bản từ 1926 đến 1989. Năm 1937, quân đội Nhật Bản đã phạm tội ác chiến tranh mà bây giờ được gọi là Thảm sát Nam Kinh, cũng thường được gọi là vụ "Cưỡng hiếp Nam Kinh", là một vụ tội ác chiến tranh do quân đội Nhật Bản tiến hành bên trong và xung quanh Nam Kinh, Trung Quốc sau khi thành phố này rơi vào tay Quân đội Thiên hoàng Nhật Bản ngày 13 tháng 12 năm 1937. Thời gian diễn ra cuộc thảm sát vẫn chưa được biết rõ, dù bạo lực đã kết thúc trong vòng sáu tuần, cho tới đầu tháng 2 năm 1938.
Trong thời gian chiếm Nam Kinh , quân đội Nhật Bản đã thực hiện rất nhiều các hành động tàn bạo như hiếp dâm, cướp bóc, đốt phá với các tù nhân chiến tranh và thường dân. Một số lượng lớn phụ nữ và trẻ em bị giết, hãm hiếp. Số người chết khoảng từ 150.000 đến 300.000.
Tuy không trực tiếp nhưng ông là người trị vì khi vụ thảm sát xảy ra nên có vai trò trách nhiệm lớn. Thiên hoàng Chiêu Hòa qua đời năm 1989 sau một thời gian ốm đau dài.
Tham khảo: Listverse​

Hoc dao duc no lam gi

Do Hoang
HOC DAO DUC NO LAM GI?
Nhung ke ac nhat tran gian
Hoc dao duc no de tan dia cau
Ha noi 26 - 9- 2016
D - H
1- Thien Vu
2- Hitle
10 người độc ác và tàn bạo nhất lịch sử nhân loại
Trong lịch sử loài người, có rất nhiều những kẻ tàn bạo, đáng sợ. Nhưng trong bài viết này, chúng tôi sẽ đưa ra một danh sách tổng hợp những người đàn ông ác nhất trong lịch sử. Ác ở đây không chỉ bao gồm việc tàn sát mà còn dựa trên những tác động xấu, sự tàn bạo mà họ đã gây ra cho cả xã hội. Sẽ có những ý kiến trái chiều vì những nhân vật này hoàn toàn cũng có đóng góp của họ. Nhưng về mặt khách quan, họ đã gây ra những hậu quả xấu trên quy mô lớn.
10. Thiền vu Hung Nô Attila
[​IMG]​
Cái tên đầu tiên trong danh sách đến từ xứ sở Hung Nô hoang dại. Attila hay còn được người châu Âu là Attila Rợ Hung, mang biệt hiệu "Ngọn roi của Thượng đế" hoặc "tai họa của trời", là Thiền Vu của Đế quốc Hung Nô từ năm 434 đến năm 453. Đối với Hung Nô thì ông là một người niềm tự hào, ông đã lãnh đại đế chế Hunnic trải dài từ Đức đến sông Ural và sông Danube tới biển Baltic. Nhưng với nền văn minh Tây Âu ông hiện thân là một kẻ tham lam và tàn bạo bậc nhất.
Ông đã chinh phạt khắp các chiến trận, từ vùng Balkan đén tận phát, thậm chí còn suýt chiếm được Đông La Mã. Tuy nhiên một dịch bệnh đã ngăn trở thành công của ông. Trên những con đường mình đi qua, ông ta đã cướp bóc và tàn sát rất nhiều người. Những cuộc thanh trừng của ông khiến cho bao kẻ nước mất nhà tan, phải sống một cuộc đời nô lệ phục vụ cho quân đội của vị vua tàn bạo. Ông còn được biết đến qua câu nói thể hiện tư tưởng tận diệt : "Nơi nào vó ngựa của ta đi qua, ở đó cỏ không còn mọc được nữa”.
Nhưng cuối cùng, trớ trêu thay vị hoàng đế đầy quyền lực này lại chết vì chảy máu cam trong tiệc cưới của chính mình.
9. Maximilien Robespierre
[​IMG]​
Nhiều người sẽ vô cùng thắc mắc và phản đối khi tên nhà lãnh đạo khởi nghĩa pháp lại có trong danh sách này. Ông là nghị sĩ của đẳng cấp thứ 3, đẳng cấp của tư sản và nông dân trong xã hội Pháp. Ông nổi tiếng qua những lời lẽ sắc bén và ý kiến sâu sắc. Năm 1789, ông tham gia cách mạng Pháp với tinh thần trách nhiệm cao và ý thức phục vụ nhân dân. Nhân dân Pháp tôn ông là "bạn của người nghèo", "lãnh tụ không thể mua chuộc”.
Tuy nhiên rằng trong cuộc đời cách mạng của mình, ông đã có những sai lầm nhất định. Ông là người đứng sau những cuộc hành quyết hàng loạt sau cách mạng lấy đi mạng sống của nhiều người vô tội. Số người chết dao động trong khoảng từ 18500 đến 40000 người, có rất nhiều người vô tội. Trong đó có khoảng 8% quý tốc, 6% giáo sĩ, 14% ở tầng lớp trung lưu và 70% là công nông dân. Những người này đều bị buộc các tội như tích trữ, đào ngũ, nổi loạn, … Đặc biệt trong số những người bị kết tội oan có nhà bác học nổi tiếng Antoine Laurent Lavoisier. Ông đã mất dần sự ủng hộ của nhân dân.
Cuối cùng thì ông cũng bị bắt và xử tử khi mới chỉ 36 tuổi bởi những người phản cách mạng.
8. Ruhollah Khomeini
[​IMG]​
Khomeini là một nhà lãnh đạo tôn giáo và chính trị gia người Iran, người lãnh đạo cuộc Cách mạng Iran 1979 trong đó chứng kiến sự lật đổ của Mohammad Reza Pahlavi, vị Shah cuối cùng của Iran. Sau cuộc cách mạng và một cuộc trưng cầu dân ý toàn quốc, Khomeini trở thành Lãnh đạo Tối cao của Iran - một vị trí có quyền lực tối cao cả về chính trị lẫn tôn giáo của quốc gia được hiến pháp đặt ra, cho tới khi ông qua đời. Trong thời gian lãnh đạo, ông đã thực thi luật Sharia ( luật hành vi hoặc luật tôn giáo của Hồi giáo) với những quy định về quần áo, ăn uống bắt buộc. Ai chống lại sẽ bị xử bởi những hình phạt khắc nghiệt. Trong cuộc nói chuyện tại trường Fayzieah ở Qom, ngày 30 tháng 8 năm 1979, Khomeini cho biết : “Những kẻ giả danh dân chủ để mang lại sự tàn phá cho đất nước này sẽ phải bị đàn áp và treo cổ”.
Ở trong nước ông rất được ủng hộ và tôn thờ nhưng ở nước ngoài, ông được biết nhiều vì sự ủng hộ những người bắt cóc con tin trong suốt cuộc Khủng hoảng Con tin Iran và lời kêu gọi fatwa (bản án) cho cái chết của công dân Anh Salman Rushdie.
Trong vụ thảm sát các tù nhân của Iran năm 1988, Khomeini đã ra lệnh cho tòa án ra phán quyết cho các tù nhân chính trị và giết những người chống lại chế độ. Hàng ngàn người đã phải chết, theo cuốn hồi ký của Grand Ayatullah Hossein Ali Montazeri thì số người chết lên đến con số 30.000.
Khomeini qua đời vì bệnh ung thư vào ngày thứ Bảy , 04 tháng Sáu năm 1989 ở tuổi 86.
7. Idi Amin
[​IMG]​
Idi Amin là một nhà chính trị và đã từng giữ chức tổng thống Uganda. Amin đã gia nhập quân đội thực dân Anh năm 1946 và đã được thăng lên đến hàm trung tướng và tư lệnh quân đội Uganda. Ông đã lên nắm quyền sau vụ đảo chính quân sự tháng 1 năm 1971, phế bỏ Milton Obote.
Trong thời kì của mình, ông đã ông đã đàn áp chính trị, lạm dụng nhân quyền và hành quyết các dân tộc khác, trục xuất người Ấn Độ ra khỏi Uganda. Số lượng người chết trong chế độ của ông chưa được xác định rõ nhưng được ước tính trong khoảng từ 80.000 đến 500.000 người. Ngày 04 tháng 8 năm 1972 , Amin đã ban hành một sắc lệnh trục xuất 60.000 người châu Á không phải là công dân Uganda.
Amin cuối cùng đã bị lật đổ, nhưng cho đến khi qua đời ông ta vẫn không hề bày tỏ sự hối hận vì đã lạm dụng chế độ cũng như những cái chết do ông gây ra.
6. Leopold II của Bỉ
[​IMG]​
Leopold II đã lập ra thứ được gọi là “Nhà nước Tự do Congo” (một quốc gia-doanh nghiệp của riêng ông). Mục đích của ông là để trích xuất cao su và ngà voi trong khu vực này. Việc sản xuất dựa trên cưỡng bức lao động, tàn sát … nhà nước Tự do Congo chìm trong cảnh khủng bố, giết chóc hàng loạt, săn người làm nô lệ.
Chế độ Nhà nước tự do Congo đã gây phẫn nộ trong dư luận quốc tế. Leopold đã cai trị vùng đất lớn hơn cả diện tích nước Bỉ và áp bức người dân ở đây bằng quân đội. Những lao động ở đây bị tra tấn, tàn sát dã man, họ bị chặt tay, chân khi không nghe lời... Con số nạn nhân ước tính khoảng từ 5 đến 20 triệu, số người chết là 3 triệu người.
Năm 1908, trong một hành động xoa dịu sự phản đối quốc tế về tính tàn bạo của Nhà nước Tự do Congo, chính quyền Bỉ đã đồng ý sáp nhập nơi đây thành một thuộc địa, là lập tức đổi tên thành Congo thuộc Bỉ. Tháng 12 năm 1909, Leopold II qua đời tại Laeken.
5. Pol Pot
[​IMG]​
Nhân vật này hẳn chẳng còn xa lạ với chúng ta nữa. Tội ác của vị thủ lĩnh Khmer đỏ đến nay vẫn còn được nhắc đến rất nhiều. Tên thật là Saloth Sar, được biết đến dưới cái tên Pol Pot, là người lãnh đạo đảng cộng sản Khmer Đỏ và là thủ tướng Campuchia từ 1976 đến 1979, cầm quyền không chính thức từ giữa năm 1975.
Ông ta đã lãnh đạo đất nước theo hướng nông nghiệp một cách cực đoan. Tất cả các cư dân thành phố được chuyển tới các vùng nông thôn để làm việc trong các trang trại tập thể. Việc lao động ở đây là sự kết hợp của lao động cưỡng bức, nô lệ, chăm sóc y tế kém, suy dinh dưỡng và hành quyết.
Chế độ Pol Pot đã giết hại từ 1,5 tới 2,3 triệu người trong giai đoạn 1975-1979, trong tổng dân số gần 8 triệu (26% dân số). Mục tiêu của chế độ là các nhà sư Phật giáo, những trí thức có ảnh hưởng phương tây, những người có vẻ là trí thức (như những người đeo kính), những người tàn tật, các dân tộc thiểu số như Lào và Việt Nam.
Lãnh đạo Khmer Đỏ khoe khoang rằng chỉ một hay hai triệu người trong số dân chúng toàn cuộc là cần thiết để xây dựng một xã hội điền địa cộng sản không tưởng. Đối với những người khác, thì theo câu châm ngôn, "sống cũng chẳng được gì; chết cũng chẳng mất gì. Hàng trăm ngàn người đã bị xiềng xích, bị buộc phải đào mồ chôn chính mình. Sau đó các binh sĩ Khmer Đỏ đánh họ đến chết bằng những thanh sắt và những cái cuốc hay chôn sống họ. Một chỉ thị của Khmer Đỏ về việc giết chóc đã ra lệnh, "Không được làm phí đạn dược" . Khmer Đỏ từ chối những lời đề nghị viện trợ nhân đạo, một quyết định cho thấy là một thảm hoạ nhân đạo, khi hàng triệu người đã chết đói và vì phải làm việc quá sức ở vùng nông thôn. (nguồn : Wikipedia)
Pol Pot mất ngày 15 tháng 4 năm 1998.
4. Vlad III Ţepeş
[​IMG]​
Vlad III của Ru-ma-ni (còn được gọi là Vlad Impaler, Dracula) là một vị Vương công của xứ Wallachia (phía nam Romania). Ông đã trị vì ba lần: trong các năm 1448, 1456 - 1462, và 1476. Ông ta được biết đến như một huyền thoại với cuộc sống lập dị, tính cách tàn bạo và những màn tra tấn cực kì tàn nhẫn được áp dụng trong triều đại của mình. Người ta tin rằng, tên tuổi của Vương công Vlad III đã ảnh hưởng đến hình ảnh con ma cà rồng trong tiểu thuyết Dracula của Bram Stoker vào năm 1897.
Dracula còn được gọi là Ţepeş nghĩa là Kẻ xiên người vì một trong những hình phạt là đóng cọ xuyên người. Ngoài ra còn có một phương pháp nổi tiếng nữa là phanh thây bằng ngựa … ngoài ra danh sách những hình thức tra tấn của ông còn dài dằng dặc với đủ các loại hình thức kinh tởm nhất. Có thông tin rằng chỉ riêng trong năm 1460 đã có 10.000 người bị Vlad tra tấn chết.
Theo lịch sử thì cha ông là hoàng thân xứ Wallachia và ở tại cung điện Tirgoviste. Năm 1442, vì lý do chính trị, Dracula và em trai đã bị vua Murad II bắt giữ làm con tin tại Đế quốc Thổ Nhĩ Kỳ cho tới năm 1448. Chính cuộc sống cầm tù chính trị, trong thời gian này đã đóng một vai trò quan trọng trong nhận thức của Dracula và cũng là thời kỳ hình thành cái nhìn bi quan về cuộc sống. Sau khi được thả thì Vlad III đã trả thù cho anh trai và cha (đã chết trong một vụ ám sát) bằng việc giết và đóng cọc toàn bộ những người có liên quan.
3. Ivan bạo chúa
[​IMG]​
Ivan IV là nhà cầm quyền đầu tiên của nước Nga chính thức xưng Sa hoàng. Trong thời gian cầm quyền kéo dài của mình ông đã chinh phục Tartar và Xibia cũng như chuyển nước Nga trở thành một quốc gia đa sắc tộc và đa tôn giáo. Trong lịch sử Nga, vị Nga hoàng này đơn giản được gọi là Ivan Bạo chúa hay Ivan Hung Đế vì những điều độc ác và tàn bạo từ ông.
Thời kì đầu, ông cai trị và sát nhập đất nước trong hòa bình. Nhưng đến thời kì cuối, do nhiều biến cố không mong muốn, ông dần trở nên mất ổn định và trở nên bạo lực. Những kẻ trung thành với ông đã đốt phá và cướp bóc thành phố cùng các làng mạc. Có thể tới 60.000 người đã bị giết hại trong vụ Thảm sát Novgorod nổi tiếng năm 1570. Năm 1581, Ivan đã đánh cô con dâu đang mang thai của mình vì tội mặc quần áo khiếm nhã, có thể đây là nguyên nhân khiến cô bị sảy thai. Con trai ông, cũng tên là Ivan, khi biết tin này đã lao vào một cuộc tranh cãi nảy lửa với cha, cuộc tranh cãi kết thúc khi Ivan dùng cây gậy nhọn đánh vào đầu con mình, gây ra cái chết của người con trai. Sự kiện này đã được thể hiện trong bức tranh nổi tiếng của Ilya Repin, Ivan Bạo chúa và con trai Ivan vào thứ Sáu, 16 tháng 11 năm 1581 nổi tiếng hơn với tên gọi Ivan Bạo chúa giết con trai.
Ông mất ngày 18 tháng 3 năm 1584 khi đang chơi cờ. Nhưng giới khoa học có những nghi ngờ về việc ông bị đầu độc thủy ngân.
2. Adolf Hitler
[​IMG]​
Danh sách này không thể thiếu đi Hitler, vị Quốc trưởng gây ra nạn diệt chủng Do thái và khơi ngòi chiến tranh thế giới thứ 2. Adolf Hitler được bổ nhiệm làm tướng Đức vào năm 1933, trở thành Quốc trưởng vào năm 1934 khi chiến tranh kết thúc năm 1945.
Chính sách của Hitler là xâm chiếm lãnh thổ và chinh phục chủng tộc đã xem lại sự diệt chủng hàng loạt. Vào năm 1939, có khoảng 10 triệu người Do Thái sống trên những lãnh thổ bị lực lượng của Hitler chiếm đóng. Dù theo ước lượng nào, điều chắc chắn là phân nửa số người này đã bị Quốc xã sát hại. Đấy là hệ lụy chung cuộc và cái giá ghê gớm của sự lầm lạc mà nhà lãnh đạo Quốc xã truyền tải đến - hoặc chia sẻ với - nhiều người đi theo ông ta.
Hitler đã tự tử bằng súng vào ngày 30 tháng 4 năm 1945, dưới boongke riêng của mình.
1. Josef Stalin
[​IMG]​
Stalin là Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Liên Xô từ năm 1922 đến năm mất 1953. Stalin còn là Tổng tư lệnh quân đội, hàm Đại nguyên soái Liên Xô. Ông là nhà lãnh đạo tối cao của Liên bang Xô viết từ giữa thập niên 1920 cho đến khi qua đời. Ông có công lãnh đạo Liên Xô giành thắng lợi trong cuộc Chiến tranh Xô-Đức, cũng như đưa Liên Xô trở thành một siêu cường thế giới. Tuy nhiên, ông cũng bị phê phán vì những chính sách sai lầm và tệ sùng bái cá nhân, và được xem là một nhà độc tài.
Dưới sự cầm quyền của Stalin, Ukraine đã phải chịu một nạn đói kinh khủng, ước tính số người chết từ 2,5 đến 10 triệu người. Nguyên nhân nạn đói này là do những quyết định chính trị và hành chính của nhà độc tài. Stalin đã ra lệnh thực hiện vụ thảm sát Katyn, bắn chết hàng ngàn sĩ quan Ba Lan bị bắt trong cuộc chiến thế giới lần thứ Hai khi Liên Xô cùng Đức Quốc Xã tấn công Ba Lan. Stalin sử dụng các phương pháp điều hành cứng rắn, bao gồm cả khủng bố nhà nước trong thời kỳ đại thanh trừng, theo ước tính từ tháng 08/1937 đến tháng 10/1938, chỉ riêng trong nhà tù tại Ủy ban an ninh quốc gia, chế độ Stalin đã bắn bỏ 20.760 người, trong đó có khoảng 1000 người lãnh đạo tôn giáo.
Tổng số người bị sát hại dưới chế độ cầm quyền của ông nay được ước tỉnh khoảng từ 10 đến 60 triệu.
Bổ sung: Hirohito
[​IMG]​
Được biết dưới tên Thiên Hoàng Chiêu Hòa, ông là Nhật Hoàng của Nhật Bản từ 1926 đến 1989. Năm 1937, quân đội Nhật Bản đã phạm tội ác chiến tranh mà bây giờ được gọi là Thảm sát Nam Kinh, cũng thường được gọi là vụ "Cưỡng hiếp Nam Kinh", là một vụ tội ác chiến tranh do quân đội Nhật Bản tiến hành bên trong và xung quanh Nam Kinh, Trung Quốc sau khi thành phố này rơi vào tay Quân đội Thiên hoàng Nhật Bản ngày 13 tháng 12 năm 1937. Thời gian diễn ra cuộc thảm sát vẫn chưa được biết rõ, dù bạo lực đã kết thúc trong vòng sáu tuần, cho tới đầu tháng 2 năm 1938.
Trong thời gian chiếm Nam Kinh , quân đội Nhật Bản đã thực hiện rất nhiều các hành động tàn bạo như hiếp dâm, cướp bóc, đốt phá với các tù nhân chiến tranh và thường dân. Một số lượng lớn phụ nữ và trẻ em bị giết, hãm hiếp. Số người chết khoảng từ 150.000 đến 300.000.
Tuy không trực tiếp nhưng ông là người trị vì khi vụ thảm sát xảy ra nên có vai trò trách nhiệm lớn. Thiên hoàng Chiêu Hòa qua đời năm 1989 sau một thời gian ốm đau dài.
Tham khảo: Listverse​

Thứ Bảy, 2 tháng 1, 2016

Nỗi đau tiên tổ

Nỗi đau tiên tổ

Chủ nhật - 03/01/2016 10:40


Ltg: Cách đây mấy năm Thủ tưởng Nguyễn Tấn Dũng nói trước đại chúng: Việt Nam đã chuyển 175 000 héc ta đất nông nghiệp thành nhà máy công xưởng cho doanh nghiệp trong nước và nước ngoài làm ăn xây nhà xưởng và nhà ở. Nước ta ba phần tư núi đồi bỏ không, đất bở xôi ruộng mất nghìn năm cha ông mới tạo dựng được dần dần biến mất, bê tông hóa. Thật là đau xót. Vậy có thơ rằng:

Đỗ Hoàng

NỖI ĐAU TIÊN TỔ

Ruộng vườn xôi mật hóa bê tông!
Đất nước mất tiêu vạn cánh đồng.
Quan lại lầu trang đi mỏi đít, (1)
Dân có ổ chuột xổm tê mông!
Gian tà ác bá nhiều như rắn,
Nghĩa sỹ hiền nhân hiếm tựa rồng!
Vằm nát dư đồ bầy khuyển mã.
Suối vàng tiên tổ có đau không!

Hà Nội ngày 1 – 1 – 2016

Đ – H
(1)            Người vùng cao bảo cán bộ đi ô tô là đi bằng đít