Chủ Nhật, 30 tháng 6, 2019

Dịch thơViệt ra thơ Việt -Dịch Nguyễn Quang Thiều


lThuê xe 16 chỗ
DỊCH THƠ VIỆT RA THƠ VIỆT- DỊCH NGUYỄN QUANG THIỀU
Bài " thơ " Nguyễn Quang Thiều
Lịch sử Tấm thảm Thổ Nhỹ Kỳ
" Người hướng dẫn : Được dệt thủ công bởi một người đàn bà Thổ Nhĩ Kỳ
"Người mua : Mua lại từ một ông già da đen Cuba ở Havana năm 1986
"Chủ nhân : Qùa tặng của con trai tôi. Được treo trên bức tường này 21 năm
Lúc gần sáng tiếng những cành khô gãy
Những con nai cái mùa động đực
Chủ nhân bức thảm 87 tuổi tỉnh giấc uống trà nguội
Những con nai đực ngùn ngụt
Ngôi nhà như không bao giờ mở cửa
Một bà già đi tiểu lần thứ 5 nói : "Mẹ đau lắm"
21 năm tấm thảm không thay đổi chỗ treo
Người đàn ông 50 tuổi thường trở về và đứng
Trong ngôi nhà nửa bóng tối
Tràn ngập tấm thảm tiếng hô hoán
Và phía sau tấm thảm
Một lưỡi dao lạnh lùng đợi
Và một cái chảo sùng sục sôi
Người hướng dẫn : Những ngón tay người đàn bà mù Thổ Nhĩ Kỳ giờ bị liệt
Người mua : ông già da đen Cuba đã tự vẫn
Chủ nhân : Tôi chỉ nhớ gương mặt con trai tôi khi nó mở bức thảm ra
Có một người lúc nào cũng rét
Đứng nhìn tấm thảm
Hai bàn chân bị đông cứng trong vũng máu
Ở chân tường
Người hướng dẫn : ( đã bỏ nghề)
Người mua : hình như không phải tấm thảm tôi đã mua
Chủ nhân : Tôi nhìn thấy những người thân đã chết cháy nấp sau những gốc cây trong tấm thảm
Bây giờ là năm thứ hai mươi hai

Đỗ Hoàng dịch Vô lối "Lịch sử một tấm thảm Thổ Nhĩ Kỳ" ra thơ Việt
 
       Người viết cứ viết ra theo sự suy nghĩ chủ quan của mình. Sau đó người ta phân và chia ra làm nhiều thể loại như: Văn, thơ, phú, tế, hịch, ca dao, tục ngữ, vè, nói lối, hát vui chơi, nói vui chơi...
  Thời hiện đại các tác giả cũng có nhiều cách viết, cách nói, cách lập ngôn nhưng chưa thấy các nhà phê bình phần loại thể. Tôi đã có nhiều lần đề nghị với tư cách cá nhân khi thấy nhiều người viết ra nhiều kiểu lạ mắt lạ tai, thấy thơ cũng không phải thơ, văn cũng không phải văn, dịch cũng không phải dịch, truyền thống cũng không phải truyền thống; người trẻ cũng có, người già cũng có; tộc người đa số cũng có, tộc người thiểu số cũng có; các kiểu viết ấy nên gọi với cái tên phân thể loại là "Vô lối". Từ "Vô lối" cũng đủ giải nghĩa các kiểu viết trên. Đại biểu cho kiểu "Vô lôi" này là Thanh Tâm Tuyền, Lê Văn Ngăn, Văn Cầm Hải, Vi Thuỳ Linh, Phú Trạm Inrasara, Nguyễn Quang Thiều, Nguyễn Bình Phương, Phan Thị Vàng Anh, Phan Huyền Thư, Phạm Vân Anh, Nguyễn Khoa Điềm, Hoàng Vũ Thuật...
 Xin dịch bài "Vô lối" 
 Lịch sử một tấm thảm Thổ Nhĩ Kỳ
Tác giả Nguyễn Quang Thiều

"Tấm thảm Thổ thăng trầm thiên biến,
Hướng dẫn viên dẫn chuyện rõ ràng:
- Thảm này dệt sợi dọc ngang,
Một bà Thổ có tay vàng làm ra.
Người mua lại một ông già,
Da đen quốc tịch Cu Ba rạch ròi.
Ở Ha va na hẳn hoi.
Vào năm tám sáu cũng thời mới đây.
Chủ nhân nói: - Tấm thảm này,
Quà con trai tặng cho thầy u thương!
Hai mốt năm treo trên tường.
Cỏ cây muông thú lạ thường hiển linh (1)
Sớm khuya vang vọng quanh mình,
Tiếng cây, tiếng suối thập thình đâu đây.
Tiếng nai gọi bạn hao gầy,
Mùa sinh sôi giục đàn bầy đến nhanh.
Chủ nhân tám bảy xuân xanh.
Sáng xơi trà nguội đã thành thói quen.
Những con nai đực khát thèm,
Nhưng nhà đóng cửa cài then chặt rồi.
Bà già năm lượt đi ngoài,
Lưng còng chân yếu kêu lời xót đau.
Thảm không dịch chuyển đi đâu,
Hai mốt năm vẫn gắn đầu chỗ treo.
Ông năm mươi tuổi dáng nghèo,
Trở về thường đứng vai đeo túi hờ.
Ngôi nhà tối sáng mập mờ,
Tràn lên tấm thảm tiếng hô hoán đầy.
Phía sau tấm thảm ai hay?
Lưỡi dao sắc lạnh đợi ngày bén xơi.
Một cái chảo sùng sục sôi,
Hướng dẫn viên: - Bà Thổ quả thiệt thòi tấm thân.
Mù loà liệt cả tay chân.
Người mua lại kể ngọn ngành xảy ra.
Ông già da đen Cu Ba,
Khốn cùng tự vẫn thế là đi tong.
Chủ nhân bày tỏ thật lòng:
- Nhớ con trai gương mặt hồng như hoa.
Chính lúc tấm thảm mở ra,
Một người lạnh cóng như là chết khô
Đứng nhìn tấm thảm trống trơ,
Hai chân đông cứng lặng tờ máu tươi.
Hướng dẫn viên bỏ nghề rồi.
Người mua quên bẵng một thời mình mua.
Chủ nhân: Tôi bạn khiếp chưa?
Người thân chết cháy chẳng lưa thứ gì,
Gốc cây trong thảm thâm sì.
Bây giờ là đúng năm hai nhì ai ơi!

(1) Người dệt tài tình đến mức cây cỏ, muông thú trog tấm thảm trở thành sinh linh có sức sống ngoài đời chạy nhảy.

Hà Nội, ngày 7 - 3 - 2010
Đỗ Hoàng

Thanh Thảo bốc thơm Hữu Thỉnh


THANH THẢO BÔC THƠM HỮU THỈNH - NỖI KHẮC KHOẢI SÂU THẲM (*)- Bài in trên tạp chí  thơ số 10 - 2016
Đỗ Hoàng
LTS: Thanh Thảo là một  cây bút mậu dịch tem phiếu trăm phần trăm. Thơ văn đã tem phiếu, điểm sách phê bình cũng tem phiếu nốt. Với một tầm nhìn  văn chương  rất "vẹm" lại vụ lợi xu thời, tung hô kẻ có chức, có tiền nên tác phẩm không có giá trị gì cho cộng đồng.. Điển hình là bài bốc thơm thơ Hữu Thỉnh "Nỗi khắc khoải sâu thẳm".
 Thơ ca muôn đời không chấp nhận trung bình. Một là được, hai là mất. Ví dụ như số: 0, 1 vậy. Thế nhưng từ xưa đến nay,chế độ nào cũng thế,chức quyền và đồng  tiền nó thao túng hết! Các chế độ độc tài thì chúng càng lũng đoạn hơn! Nên mới có chuyện, nhà thơ có quyền, có tiền dù tiếng phổ thông không thông thạo vẫn xưng thi hào thi bá một  thời do bọn văn nô tụng ca.
 Ở ta,cha ông chúng ta phải đau đớn thốt lên: " Nén bạc đâm toạc tờ giấy" . Bây giờ thì nén bạc đâm toạc ti vi, nén bạcđâm toạc thơ ca - Đó là trường hợp Thanh Thảo bốc thơ thơ Hữu Thỉnh - "Một nỗi khắc khoải sâu thẳm".
  Hữu Thỉnh trưởng thành từ anh lính lên làm quản lý đội ngũ văn nghệ Việt Nam do Đảng Cộng sản lãnh đạo - Một độc Đảng toàn trị! Các bài viết của Hữu Thỉnh từ thơ ca,văn xuối,lý luận đến điều văn đều nhạt và yếu. Những bài, những câu Thanh Thảo  đã chọn lọc để trích dẫn nhưng toàn là những bài , những câu non nớt,  yếu, như bài "Ngõ Thu"
"Mẹ già khom bóng dưới cau
Ngõ thu nắng dãi, ngày mau sập chiều
Có gì  trời đất mang theo
Thế gian muôn nỗi cánh diều mong manh
Có gì vực xoáy chông chênh
Gió neo tay mẹ bỗng thành thiên thu"
  Bài này là bài yếu kém toàn diện.Chưa nói đến việc dùng từ, vần điệu rất cẩn thiết cho thể thơ lục bát, mà nội dung, ý tứ, xúc cảm...quá ư sơ sài, nhạt nhẽo,do kém thi pháp, tài thơ tầm thấp nên dẫn đến nhiều hệ lụy khác. Nó thua cả bài vè "Mua đồng nát":
"Ti vi, quạt , tủ, nồi cơm
Bàn là, tủ lạnh, máy bơm mua liền" Thế mà Thanh Thảo bốc thơm"Với Hữu Thỉnh quê nhà trong thơ anh, chính là mẹ. Người mẹ nông dân vô cùng thương yêu của anh.  Khi yêu mẹ, mỗi đứa con đều có thể là thi sĩ. Và nhà thơ có thể là "hai lần thi sĩ" khi yêu mẹ mình, khi mẹ trở thành hình bóng đi về ám ảnh trong thơ họ. Có một bài lục bát chỉ 6 câu của Hữu Thỉnh mà tôi muốn đặt ngay ở dòng đầu bài viết là cho hình ảnh Mẹ - Quê nhầ trong thơ Hữu Thỉnh.
Mẹ ở đây vừa là mẹ của mình,vừa là mẹ của những đứa con ở quê mình. Ngõ quê ở đây có thể là ngõ nhà mình và cũng là ngõ của bao nhiêu ngôi nhà quen thuộc ở một miền quê trung du."
 Tại sao người ta viết về mẹ chỉ được một lần thi sĩ, còn Hữu Thỉnh viết về mẹ được hai lần thi sĩ? Điều này Thanh Thảo cả vú lấp miệng em, hay Hữu Thỉnh được chiếu cố con liệt sĩ, thương binh,miền Nam tập kết, dân tộc ít người...làm thơ về mẹ được chiếu cố thêm điểm (!)
  Người ta có thể viết thơ, nhạc, họa, văn vẻ...về người thân . Đó là tình cảm thiêng liêng mà không một ai có thể xâm phạm. Nhưng khi anh đã xuất bản công bố thì mọi người có quyền phán xét điều thiêng liêng ấy.
 Vào bài "Ngõ thu", câu mở đầu rất dở. "Mẹ già khom bóng dưới cau". Người mẹ Việt Nam hay người mẹ nhân loại, người mẹ nào chẳng một đời còng lưng nuôi con, chăm cháu. Họ đã khom lưng, gập gối vì nghèo đói, cơ cực,vì bạo quyền,nay dưới bóng cau hiền lành che chở, người mẹ già còn khom bóng nữa, thì sống trên đời làm  gì! Một câu thơ ác tâm. Hữu Thỉnh không đến nỗi xem nhẹ người mẹ nhưng ông quá vụng dại và không đọc ca dao, tục ngữ và thơ ca muôn phương nên khi sử dụng từ ngữ khắc họa hình tượng người mẹ chỉ mới câu mở đầu đã gây raphanr cảm thế này!
  Đáng ra phải viết:
" Mẹ già lồng lộng bóng cau"
Câu tiếp:
" Ngõ thu nắng dải ngày mau sập chiều"
 Câu này không sai nhưng không thiện tâm như kiểu nộp mắng người già: " Mụ tra rồi mau chết đi" (Bà già rồi chóng chết). Câu cuối cùng cũng là câu nguyền người già mau chết:
" Gió neo tay mẹ bỗng thành thiên thu"
Tưởng là gió neo tay mẹ là đem lại điều lành, điều tốt - trường sinh cho mẹ, ai dè gió làm cho mẹ "bỗng" thành thiên thu, mau chết!
  Câu kết nên viết:
" Gió neo tay mẹ ngăn thành thiên thu".
Cha ông ta đã viết về"Mẹ già" hay lắm:
" Mẹ già như chuối bà hương
Như xôi nếp một, như đường mía lau"
"Ngồi buôn nhớ mẹ ta xưa
Miệng mem cơm búng, lưỡi lừa cá xương"
"Chiều chiều ra đứng ngõ chiều
Nhìn lên mả mẹ chín chiều ruột đau"
"Cơm người khổ lắm mẹ ơi!
Chẳng như cơm mẹ vừa ngồi, vừa ăn"...
Thơ chống Mỹ cũng có những bài rất hay viết về mẹ:
"Buổi chiều mẹ lên rẫy
Thấy bóng cây Kơ - nia
Bóng trùm che lưng mẹ"
(Ngọc Anh)
Trên thế giới:
Thơ E xe nhin - Thư gửi mẹ:

Письмо к матери
Ты жива еще, моя старушка?
Жив и я. Привет тебе, привет!
Пусть струится над твоей избушкой
Тот вечерний несказанный свет.
..
Mong mẹ trường sinh.Mẹ kính yêu
Con vẫn sống, Con chào Mẹ
Vầng sáng diệu kỳ chiều hôm
Mãi mãi tỏa che đờiMẹ!...
(Đỗ Hoàng dịch)
 Thơ hiện đại sau năm 1975 các tác giả cũng viết rất hay về mẹ  với một bút pháp rất mới, rất truyền cảm sâu sắc:
"cuống vé như cánh đồng được mùa
mẹ cất kỷ trong túi áo nâu, gài kim băng kín miệng
sợ mất đi là mất cả mùa màng..."
(Trần Quang Đạo)
 Hữu Thỉnh làm thơ lục bát rất yếu kém, cả vần điệu, tình, ý...Chỉ 6 câu lục bát mà có đến 5 lỗi vận (chiều, theo, diều, manh, thành)
Đại thi hào Nguyễn Du cách đây 300 năm khi ông cha ta đang dùng chữ Hán,chữ Nôm mà viết "Đoạn trường tân thanh" 3524 câu không mấy lỗi vận:
"Ngẫm hay muôn sự tại trời
Trời kia đã bắt làm người có thân
Bắt phong trần, phải phong trần
Cho thanh cao mới được phần thanh cao
Có đâu thiên vị người nào
Chữ tài chữ mệnh dồi dào cả hai
Có tài mà cậy chi tài
Chữ tài đi với chữ  tai một vần
Đã mang lấy nghiệp vào thân
Cũng đừng trách lẩn trời gần, trời xa
Thiện căn ở tại lòng ta
Chữ tâm kia mới bằng ba chữ tài..."
Thời nay,Đỗ Hoàng viết Kiều Thơ đến 6 122 câu lục bát mà không có một câu nào lỗi vận, ý tứ lại sâu xa, ý tại ngôn ngoại:
"Ngẫm ra ân oán tại người. (808)
Hiền tâm, ác bá cũng nơi lòng mình.
Đã rằng vì nghĩa, vì tình.
Sá chi cái lũ yêu tinh hung tàn.
6105- Xưa nay dưới chốn trần gian,
Núi xương, sông máu non ngàn trắng phơi.
Mệnh tài đầy đoạ kiếp người. (809)
Tơ duyên nghiệp chướng nợ đời phải mang.
Cửu tuyền còn chuyến đò ngang. (810)
6110- Nợ chưa trả hết sao sang bến chiều.
Càn khôn hoang lạnh cô liêu.
Càng gây oan trái, càng nhiều tội danh.
Cõi trần mờ mịt mong manh,
Con người, con ngợm cố giành giật nhau.
6115- Nhãn tiền trông thấy mà đau!
Đời nay đã vậy, muôn sau thế nào?
Lại mơ có những anh hào.
Hùng tài đại lược, chí cao phi thường.
Cho Kiều không phải đoạn trường.
6120- Cho bao cây cỏ bên đường bình yên.
Chỉ còn tìm đến cõi tiên. (811)
Đỗ Hoàng thử hỏi có nên dịch Kiều?"
Bài "Nghe tiếng cuốc\kêu" là một bài sơ sài xoàng xỉnh, nó không ra nói vo, không ra nói bộ, lộn xà, lộn xộn, rối ra, rối rắm dưới cả mức dở:
"Còn lại thôi, tiếng cuốc kêu
Tiếng cuốc kêu từ xưa chưa ai đặt tên cho cuốc
Cha tôi nhào đất đắp đường
Cuốc kêu ngoài bến sông"
Câu "Cha tôi nháo đất đắp đường " trước là câu nói của xã viên đi làm công ích cho hợp tác xã thời xưa. Câu "Cuốc kêu ngoài sông" đâu phải câu thơ! Một câu trẻ lên ba cũng nói được. Câu "Cốc kêu từ ngàychưa ai đặt tên cho cuốc" là câu của người bệnh tâm thần hoặc  người không biết gì về lịch sử trái đất. Trái đất đã xuất hiện cách đây đẵnm sáu tỷ năm, loài chim cũng đã xuất trên  ba bốn tỷ năm. Loài người mới trên dưới một triệu năm. Câu trên tưởng là phát hiện nhưng chẳng có phát hiện tí nào. Nó cũ mèm hơn cả loài chim xuất hiện! Nó dở đến mức không có thước nào đong đếm, thế mà Thanh Thảo tán dóc:
"Tôi đã nghe và đưa tiếng cuốc vào một bài thơ khá dài,  "Một người lính nói về thế hệ của mình" và tôi hiểu vì sao ngày xưa Bà Huyện Thanh Quan, còn bây giờ là Hữu Thỉnh lại đau đáu với tiếng cuốc kêu như thế.
"Nhớ nước đau lòng con quốc quốc
Thương nhà mỏi miệng cái gia gia"
Đúng là đưa anh viết báo tường  i tờ sovớí nữ thi hào! Không có sự xúc phạm thi hào nào hơn thế khi đem con chầu nẫu so với đạ ibàng chín tầng mây!
 Chúng tôi không muốn mất thì cho bạn đọc khi phải đọc và nghe những điều bốc thơm không phải lối của Thanh Thảo đối với Hữu Thỉnh. Vì Thanh Thảo là anh làm thơ mậu dịch tem phiếu rất kéms được lăng xê:
"Thơ như  Hồ Thành Công  (tên thật của Thanh Thảo)
Chỉ có toàn hò hét
Trang trang đều dài dòng
Câu câu đều nhạt hoét"
Bình thơ thì chỉ bốc thơm (nịnh thối)
Còn  Hữu Thỉnh:
"Hữu Thỉnh chẳng còn bài nào
Xe tăng húc đổ tường rào thi ca"
Hay:
"Đồng thơ mất tắng tay liềm hái!"
                    Hà Nội, ngày 1 - 6 - 2016
                                Đ - H

TTTương nhà amxh"ay"conchuoonfchoof

Thứ Sáu, 28 tháng 6, 2019

Chân dung tam kiệt Văn chương Việt

CHÂN DUNG TAM KIỆT VĂN CHƯƠNG VIỆT

Paul Nguyễn Hoàng Đức


1- Trần Mạnh Hảo sinh năm 1947, quê Nghĩa Hưng, Nam Định. Thời chiến tranh chống Mỹ vào bộ đội Bắc Việt, làm thơ viết văn  phục vụ nhiệm vụ đánh nhau. Sau chiến tranh viết tiểu thuyết Ly thân bị đưa ra khỏi Đảng Cộng sản Việt Nam. Hiện nay sống ở Sài Gòn. Bất đồng chính kiến với thể chế Cộng sản!



2 - Đỗ Hoàng sinh năm1948, quê Lệ Thủy, Quảng Bình. Thời chiến tranh chống Mỹ vào bộ độ  Bắc Việt trực tiếp chiến đấu và viết thơ phản chiến. Thuộc diện không được xét vào Đảng Cộng sản Việt Nam vì bố đi lính Pháp! Có tập thơ Tâm sự người lính - Nhà xuất bản Văn học in năm 1996.  Hiện nay sống ở Hà Nội. Không thích thể chế Cộng sản



3 -Nguyễn Hưng Quốc sinh năm 1957, quê Quảng Nam.
Nguyễn Hưng Quốc sinh năm 1957, tại Quảng Nam là một nhà phê bình văn học, lấy bằng tiến sĩ văn học tại Đại học VictoriaÚc. Cũng tại đó ông giảng dạy về ngôn ngữ, văn học, văn hóa và chiến tranh Việt Nam, hiện là giáo sư chủ nhiệm Ban Việt Học tại Đại học này.. Ngoài ra ông là nhà bỉnh bút (giữ một chuyên mục thường xuyên) tại Đài VOA.Nguyễn Hưng Quốc tên thật là Nguyễn Ngọc Tuấnvượt biên khỏi Việt Nam năm 1985, đầu tiên sang Pháp, sau đó định cư tại Úc từ năm 1991.[1] Khi còn ở Việt Nam, ông đã tốt nghiệp ngành sư phạm tại thành phố Hồ Chí Minh, sau đó lấy bằng tiến sĩ văn học tại đại học Victoria, Úc. Tại đại học Victoria, ông giảng dạy về ngôn ngữ, văn học, văn hóa và chiến tranh Việt Nam. Tuấn là chủ bút tạp chí Việt (1998-2001), hiện thời đồng chủ bút trang Tiền Vệ (2002~). Ngoài ra ông còn hợp tác với một số tạp chí văn học hải ngoại như VOA . Bất đồng chính kiến cới Cộng san!
Ng - H-  D

Vô lối Nguyễn Quang Thiều



VÔ LI NGUYN QUANG THIU
(Bài do tác gi gi CBTT)
 Đ Hoàng
Vô lối là một loại viết có từ thập kỷ 60 thế kỷ trước và bùng phát nhiều nhất từ thập kỷ 90 thế kỷ trước đến hôm nay. Nó càng bùng phát hơn nữa khi Hội Nhà văn Việt Nam năm 1993 trào giải cho tập “Sự mất ngủ của lửa” của Nguyễn Quang Thiều và vừa rồi (năm 2011 - 2012), Hội Nhà văn Việt Nam lại tiếp tục trao giải cho cả 4 tập của các tác giả Mai Văn Phấn, Từ Quốc Hoài, Đỗ Doãn Phương, Định Thị Như Thúy, kiểu viết như Nguyễn Quang Thiều nối dài.
Điển hình của Vô lối là triệt tiêu một trăm phần vần điệu, xóa bỏ cách nghĩ, cách cảm của ông cha và thơ ca truyền thống dân tộc và thế giới, tắc tỵ, rắc rối, tù mù, dài dòng văn tự, dây cà ra dây muống, nhạt nhẽo, đánh đố mình, đánh đố người đọc, dung tục, tình dục bệnh hoạn, sính dùng chữ nước ngoài một cách tùy tiện, tuỳ hứng…
Vô lối có một đặc điểm nữa là không thể đọc nổi vài ba dòng.
Nguyễn Quang Thiều cũng là một trong những đại biểu của Vô lối ấy vừa được các báo chí chính thống, các vụ viện chính thống, các học giả, nhà phê bình, giáo sư đại học, cánh hẩu viết bài lắng xê, ca ngợi hết lời. Họ coi đó là sự là “Hiện tượng thơ Nguyễn Quang Thiều và lộ trình cách tân”, Thơ Nguyễn Quang Thiều nhìn từ mẫu gốc” (Tạp chí Nhà văn số 6  - 2012); “Hộp đen” Nguyễn Quang Thiều – Báo Văn nghệ số 17 + 18 tháng 4 – 2012...
Cách tân tức là làm mới không chỉ ở thơ ca mà trong cuộc sống muôn loài cũng phải luôn luôn đổi mới để phát triển tồn tại. Thế hệ sau tiến bộ hơn thế hệ trước thì muôn loài, muôn vật, xã hội mới phát triển, không thì chỉ dừng lại và đi đến triệt tiêu!
Nhưng làm mới như thế nào? Tôi đã nhiều lần nói về việc làm mới. Làm mới – cách tân chứ không phải cách mạng. Đến như cách mạng lật đổ hoàn toàn quá khứ mà người vẫn còn giữ gìn và tiếp thu những ưu tú của đời trước để lại, huống hồ cách tân - làm mới, phải có kế thừa và phát huy cái hay, cái đẹp của dân tộc, của nhân loại. Nhà bác học Lê Quý Đôn  nói: “Người tài giỏi hơn hết một thời, cũng không được phá bỏ đời trước”
Những người tìm tòi đổi mới thơ ca là đáng trân trọng. Nhưng lấy cớ tìm tòi đối mới để phá bỏ, đạp đổ những chuẩn mực, những tinh hoa của cha ông từ muôn đời để lại là một ý nghĩ, hành động điên rồ.
Hàn Mặc Tử có nói: “Vẫn biết thơ ca phải tân kỳ (mới và lạ), song thơ ta là thơ quốc âm, người phương Đông chuộng nỗi đau thâm trầm, nỗi buồn kín đáo. Ta phải thể hiện cái tinh thần phương Đông ấy.”
Nhưng những người viết hôm nay và nhất Nguyễn Quang Thiều không theo tiêu chí ấy mà đi tìm một cách viết rất chi là Vô lối.
Nguyễn Quang Thiều cố tìm một cách nói, cách lập ngôn như việc đặt tên tập thơ “Sự mất ngủ của lửa” – (Hỏa đích bất thụy sự), đã thể hiện cách ấy. Đọc thấy lạ tai, không theo cách nói cách viết thuần Việt, nó như là cách viết của Tây, nhưng Tây người ta không viết thế. Câu thơ, câu văn của Tây dài nhưng phải chính xác, không thừa chữ, không thừa ý và phải thuần chủng ngôn ngữ. Đằng này Nguyễn Quang Thiều cố tạo ra cách viết lạ nhưng lại vừa dùng chữ nước ngoài, vừa không theo cách cảm cách nghĩ của dân tộc. Cách này cũng đã có người trước Nguyễn Quang Thiều viết như “Sự em có mặt cần thiết như những sớm mai” (Liên khúc những bài thơ tình thời cách xa – Thanh Tâm Tuyền)
Chữ sự nguyên là chữ Hán đã tương đối Việt hóa. Nó có ba nghĩa : 1-  việc, 2 -  làm việc, 3 - thờ. Không hiểu sự mất ngủ của lửa ở đây là việc, làm việc hay là thờ? Suy đoán trong bài hiểu theo nghĩa Hán  “Hỏa đích bất thụy sự” thì có thể là việc. Dịch ra là “Việc mất ngủ của lửa” chắc là đúng ý tác giả!
Yên ba thâm xứ đàm quân sự
Dạ bán quy lai nguyệt mãn thuyền
(Hồ Chí Minh)
Giữa dòng bàn bạc việc quân
Khuya về bát ngát trăng ngân đầy thuyền
(Xuân Thủy dịch)
Thời Nguyễn Đình Chiểu, cũng là thời Hán học đang thịnh hành, cụ Đồ Chiểu còn đi thi tú tài Hán học, thế nhưng thơ Cụ, văn tế, phú của Cụ thì rất Việt hóa.
Việc cấy, việc cày  việc bừa tay vốn làm quen
Tập khiên, tập súng, tập cớ mắt chưa từng ngó
(Văn tế nghĩa sỹ Cần Giuộc )
Nếu viết như Nguyễn Quang Thiều và Thanh Tâm Tuyền là phải:
Sự cấy, sự cày, sự bừa tay vốn làm quen
Tập khiên, tập súng, tập cờ mắt chưa từng ngó
Lại bàn về mất ngủ. Mất ngủ chỉ một trạng thái tâm lý của con người do lao lực, do nghĩ ngợi đau khổ nhiều, thần kinh yếu, do chấn động thân kinh, do chấn thương sọ não …nên dẫn đến mất ngủ. Nói chung nó là một trạng thái bệnh lý nhiều hơn. Còn người khỏe mạnh, thần kinh vững vàng thì khó có thể mất ngủ.
 Cảnh khuya như vẻ người chưa ngủ,
 Chưa ngủ vì lo nỗi nước nhà
 (Hồ Chí Minh)
Người khỏe mạnh, cứng rắn, người ta chưa ngủ hoặc người ta không ngủ để lo quốc gia đại sự, chứ họ không bị chứng bệnh mất ngủ!
Vì vậy việc đặt tên tập thơ “Sự mất ngủ của lửa” vừa không Việt hóa, vừa thừa chữ, thừa lời, vừa không ổn trong nhận thức. Có thể đặt theo cách thuần Việt “Lửa mất ngủ” hoặc “Lửa thức”…
Cách đặt tựa đề, đặt câu này Nguyễn Quang Thiều lặp đi lặp lại ở nhiều bài khác như: “Sự ấm áp gối chăn đã giữ chặt tôi” (Tiếng vọng) – In trong sách giáo khoa Tiếng Việt lớp 5 tập một, tháng 1 năm 2011.
                        Ảnh Thiều
                                  Nhà thơ Nguyễn Quang Thiều
Cách viết của Nguyễn Quang Thiều đa phần dài dòng văn tự. Viết ngắn viết dài tùy theo cảm xúc, suy nghĩ, tùy theo mức độ tình cảm của tác giả. Cái đáng viết dài thì viết dài, cái đáng viết ngắn thì viết ngắn. Có cái không đáng ba dòng tác giả lại kéo ra tràng giang đại hải
“Những ngón chân xương xẩu, móng dài và đen toẽ ra như móng chân gà mái.
Đã năm năm, mười lăm năm, ba mươi năm và nửa đời tôi thấy
Những người đàn bà xuống gánh nước sông
Những bối tóc vỡ xối xả trên lưng áo mềm và ướt
Một bàn tay họ bám vào đầu tròn gánh bé bỏng chơi vơi”
(Những người đàn bà gánh nước sông)
Hay:
“Những chiều xa quê tôi mong dòng sông dâng lên ngang trời cho tôi được nhìn thấy 
Cho đôi mắt nhớ thương của tôi như hai hốc đất ven bờ, nơi những chú bống đến làm tổ được giàn dụa nước mưa sông. “
 (Sông Đáy)
Nên nhớ rằng “ Đoản thi tối hảo phá” (Thơ ngắn có sức mạnh vô biên). Ngay phương Tây cũng có nói phải cô níc (viết ngắn).
Bác Hồ cũng đã từng nói: “Bác ít có thi giờ xem văn nghệ, nhưng khi xem thì thấy nó dài dòng, dây cà ra dây muống, hình như người viết cố viết dài ra để lấy nhuận bút. Rồi lại sính dùng chữ nước ngoài. Chữ ta có thì nên dùng chữ ta, chữ ta không có mới mượn chữ nước ngoài –   theo “Giữ gìn sự trong sáng tiếng Việt – Sửa đổi lề lối làm việc)
Có nhiều bài viết vừa dài, vừa lập luận thừa thải. Điển hình là bài “Những người đàn bà gánh nước sông” (đã trích dẫn ở trên). Ví dụ câu:
"Đã năm năm, mười lăm năm, ba mươi năm và nửa đời tôi thấy”. Đã năm năm, mười lăm năm, ba mươi năm và nửa đời tôi thấy, thì cần gì phải kể đến từng chặng một thời gian như vậy. Kể thế sao cho hết. Nếu kể thế thì phải viết cho đủ: Đã một năm, đã hai năm, đã ba năm… đã và đã, thì đến bao giờ mới kể xong. Viết chỉ ngắn gọn là “nửa đời tôi thấy” thì vừa đầy đủ, vừa chính xác. Còn có những người, họ chỉ sống 50 tuổi , 40 tuổi, 30 tuổi thì sao?
Mỉa mai thay bài này đã được chọn in trong 100 bài thơ hay nhất thế kỷ XX(!)
Cách nghĩ và cách viết không chính xác, viết lấy được của Nguyễn Quang Thiều còn nhiều nhiều. Như bài “Trong quán rượu rắn”.  Người ngồi trong quán rượu rắn, chắc là không uống rượu nên tỉnh bơ, như uống nước chai lave “Đêm vĩ đại chôn vùi trong quán nhỏ/ Rừng mang mang gọi từng khúc thu vàng”. Người đọc tưởng tác giả đang đi dạo rừng thu bạch dương ở bên Nga!
“Những con rắn bị thủy táng trong rượu". “Thủy táng” là chôn nước. Táng -  nguyên chữ Hán là chôn, vùi  đã tương đối Việt hóa. Khi người chết, nhất là người thân, người ta dùng chữ táng cho nhẹ đi, đỡ đau hơn nếu dùng chữ Việt là chôn hoặc vùi. Từ cổ đến nay có nhiều cách táng: thổ táng, hỏa táng, thủy táng, mộc táng, điểu táng, thạch táng, cẩu táng, điện táng… “Những con rắn bị thủy táng trong rượu” – Tức là những con rắn chôn nước trong rượu. Thật ra rượu là nước có nồng độ men cao, cũng như nước biển có nồng độ muối cao mà thồi. Những người đi biển khi chết được đem bỏ xuống biền và nói như cách nói của Nguyễn Quang Thiều: “Những con người bị thủy táng trong biển”. Nó vô lý và buồn cười, đau xót biết bao cho cách lập câu, cách viết như thế này.
Cha ông ta đã có cách nói rất hay khi đem bỏ thảo quả và động vật quý làm thuốc vào rượu và gọi là “ngâm rượu”: táo ngâm rượu, cam ngâm rượu, lê, mận ngâm rượu, bìm bịp ngâm rượu, rắn độc ngâm rượu… Nếu nói cho có hình ảnh mượn chữ Hán thì có thể nói “những con rắn bị đem tửu táng”!
Cách viết của Nguyễn Quang Thiều rất kém thi pháp (nghệ thuật thơ), lạm dụng nhiều chữ nhiều từ như : khóc, vỹ đại, lạm dụng từ Hán Việt chưa được Việt hóa…
Những con cá thiêng quay mặt khóc 
………
Và cá thiêng lại quay mặt khóc
(Những người đàn bà gánh nước sông – đã dẫn).
Ôi mùi cát khô, mùi tóc mẹ tôi 
Tôi quì xuống vốc cát ấp vào mặt 
Tôi khóc
(Sông Đáy)
 Nhà thơ Trần Mạnh Hảo gọi Nguyễn Quang Thiều là “nhà khóc học” thật không sai! 
Đêm vĩ đại chôn vùi trong quán nhỏ
(Trong quán rượu rắn)
Cha ông ta có những phép tu từ rất diệu nghệ, người ta không hề nói đến một chữ khóc mà đời nào nghe cũng rưng rưng:
Cơm người khổ lắm mẹ ơi!
Chẳng như cơm mẹ vừa ngồi, vừa ăn
Hay:
Chiều chiều ra đứng ngõ chiều
Nhìn lên mả mẹ chín chìu ruột đau!
(Ca dao)
Bạn về chẳng có chi đưa
Có hai lọn nếp mà chưa lặt lòn!…
(Ca dao)
Rồi mùa toóc rạ rơm khô
Bạn về quê bạn biết mô mà tìm
(Ca dao)
Ở đây Nguyễn Quang Thiều và nhiều người viết khác dùng vô thiên lũng chữ “ khóc”, người ta gọi là các “nhà khóc học” mà chẳng làm một ai mủi lòng! Thật là tại hại!
Nguyễn Quang Thiều hay viết về quê hương mình, vùng làng Chùa, sông Đáy là xứ Đoài xưa nhưng không hề thầy bóng dáng “Xứa Đoài mây trắng” ở đâu, không thấy áo lụa Hà Đông ở đâu, không thấy Hà Tây quê lụa ở đâu? Một miền cội nguồn dân ca Bắc Bộ, một miền hát xoan, ghẹobiến mất trong cách viết của Nguyễn Quang Thiều!
Mà Xứ Đoài không chỉ người con của xứ sở ấy máu thịt mà cả dân tộc, thậm chí cả châu Á, châu Âu cũng có trong hồn của họ.
Bao giờ trở lại đồng Bương Cấn
Lên núi Sài Sơn ngó lúa vàng
Sông Đáy chậm nguồn qua Phủ Quốc
Sáo diều khuy khoắt thổi đêm trăng
(Quang Dũng)
Nắng Sài Gòn anh đi mà chợt nhớ
Bởi vì em mặc áo lụa Đông
( Nguyên Sa)
Bóng chiếc thoi đưa, ánh mắt long lanh, trời đất Hà Tây quê em dệt lụa
Mây trắng Ba Vì…hồn thơ Nguyễn Trãi
(Hà Tây quê lụa – Nhật Lai)
Một lần trò chuyện với nhà văn Trung Quốc Trịnh Bá Nông nguyên Tổng biên tập báo Văn Nghệ Trung Quốc tại Bắc Kinh, ông nói: “Ở việt Nam tôi yêu thích nhất là Ca dao  Quan họ Bắc Ninh”. Trong khi đó các nhà thơ, nhạc sỹ nước mình đi tìm con cáo lông đen (ý của Gam zatop) ở đâu đâu.
Viết ngắn, viết giản dị mới khó. Đông Tây, kim cố gì cha ông cũng đã dạy
Rien n’est plus dificille que d’ecrire ficille - Không có gì khó bằng viết dễ hiểu – Châm ngôn Pháp. "Công phu thâm xứ thi bình dị" - Thơ hay nhất là thơ dễ hiểu – Lục Dụ đời Tống, Trung Quốc.
Điển hình cho sự dài dòng văn tự, tắc tỵ lố bịch, quái dị của Nguyễn Quang Thiều là bài “Lịch sử tấm thảm Thổ Nhĩ Kỳ”.
(Trích)
"Người hướng dẫn : Được dệt thủ công bởi một người đàn bà Thổ Nhĩ Kỳ
"Người mua : Mua lại từ một ông già da đen Cuba ở Havana năm 1986
"Chủ nhân : Qùa tặng của con trai tôi. Được treo trên bức tường này 21 năm
Lúc gần sáng tiếng những cành khô gãy
Những con nai cái mùa động đực
Chủ nhân bức thảm 87 tuổi tỉnh giấc uống trà nguội
Những con nai đực ngùn ngụt
Ngôi nhà như không bao giờ mở cửa
Một bà già đi tiểu lần thứ 5 nói : "Mẹ đau lắm"…
Kịch không ra kịch, đối thoại không ra đối thoại, tế không phải tế, cáo không phải cáo, điếu văn cũng không ra điều văn, kể chuyện học sinh cũng không ra kể chuyện học sinh, nhật ký cũng không phải nhật ký, hát ru bà, hát ru ông cũng không phải… Nó là một thứ ba đầu sáu tay, quái thai văn chương. Thế rồi nó lại còn dung tục: “Một bà già đi tiểu 5 lần nói: “Mẹ đau lắm!”. Trong bệnh viện khoa dưỡng lão, các bác sỹ ghi bệnh án còn sạch sẽ hơn nhiều cái gọi là thơ này!
Thơ hậu hiện đại có thể lược bỏ vần điệu, coi nhẹ vần điệu nhưng ý tứ phải sâu sắc, hình ảnh phải mới lạ, độc đáo, tình cảm phải dạt dào rung động người đọc mới chấp nhận:
Thời gian ơi, xin hãy đừng trôi nữa
Đó là lời khẩn cầu
Của những kẻ đang yêu
Tại sao các vị lại không khẩn cầu ngược lại
Tình yêu hãy ở bên các người mãi mãi
Còn thời gian thì:
Cứ kệ nó trôi đi…
(Thời gian và tình yêu – Ion Milos  Nhà thơ Thụy Điển – Thơ hậu hiện đại – Phạm Viết Đào dịch)
Hay:
Người đẹp   
Ai viết tên em bằng ánh sáng
Ai vẽ hình em bằng ánh trăng
(Dân ca Dáy)

Người đẹp trông như tuyết
Chạm vào thấy nóng
Người đẹp trông như lửa
Sờ vào thấy mát
Người không khát - nhìn người đẹp cũng khát
Người không đói - nhìn người đẹp cũng đói
Người muốn chết- nhìn người đẹp lại không muốn chết nữa
Ơ! Người đẹp là ước mơ
Treo trước mắt mọi người! 
(Lò Ngân Sủn)
hay:
Hôm qua sáu giờ năm mươi phút
                           Đồng chí Lê nin từ trần
Năm này chứng kiến một lần
              Điều bất hạnh trăm năm không thấy nửa
                       Ngày ngày muôn thuở
Sẽ là truyền thuyết đau thương
                  Tin kinh hoàng
Sắt thép bất tiếng kêu than
               Sóng nức nở trên những người cộng sản
                                    Sức nặng đè ghê gớm
                                          Không lê nổi chân đi
Biết thế nào đây và làm gì nữa!
                 Nhà hát lớn trôi trên đường phố
Nỗi buồn như một cỗ xe tang
                  Nỗi vui bò như ốc như sên
                       Nỗi buồn chạy như điên như dại
                                  Không ánh mặt trời
                                                Không ánh băng sang dọi
Tất cả đã rắc một lớp tuyết đen
                        Sàng qua báo chí
Tin ập tới
                Người công nhân trước máy
                      Như một chén lệ đổ xuống bàn dụng cụ
Trẻ nhỏ bỗng nghiêm trang như các cụ già
                                        Các cụ già khóc như trẻ nhỏ!...
(Trường ca Vladimia Ilích Lê nin – Maiacop xki – Trần Dần dịch)
Hay:
Sầm phu tử
Đan Khâu sinh
Tương tiến tửu
Bôi mạc đình
Thỉnh quân ca nhất khúc
Vị ngã khuynh nhĩ thinh
Chung cổ soạn ngọc bất túc quý
Đã nguyện trường túy bất nguyện tinh
Cổ lai thánh hiền giai tỉnh mịch
Duy hữu ẩm giả lưu kỳ danh
(Tương tiến tửu – Lý Bạch)
Sầm Phu tử
Đan Khâu sinh
Sắp mời rượu
Đừng có sai
Mời  anh ca một khúc
Vì tôi nghe mầy bài
Rượu tiệc ngon giữa trống chiêng nào có đáng quý
Không muốn tình cứ say sưa mãi hoài
Xưa nay thánh hiền có ai tên tuổi
Chỉ kẻ uống rượu là lưu danh muôn đời
(Sắp mời rượu – Đỗ Hoàng dịch)
Nói vậy, chứ tiếng Việt lược bỏ hoàn toàn vần điệu rất dễ chuốc lấy thất bại thảm hại. Vì tiếng Việt hoặc tiểng phương Đông là xỉ âm – phát ra từ răng, phần nhiều một âm tiết, không như tiếng các Âu – Mỹ - đa âm tiết, một từ nói đã có tính nhạc trong đó ví dụ như bữa ăn sáng (phiên âm): bờ rét phát, đẹp - bui ti phul (Anh ), đẹp -  kờrát xvưi (Nga)…
Nhà thơ Nguyễn Quang Thiều và một số nhà thơ, người làm thơ khác cũng có công cố gắng tìm tòi, đấy là điều đáng trân trọng. Nhưng theo quan điểm và cách thưởng thức, thẩm định của tôi thi những gì họ viết ra không phải thi ca, văn chương. Họ hoàn toàn thật bại một trăm phần trăm.
Người viết ra loại Vô lối thật đáng trách, người tung hô, in ấn lăng xê càng đáng trách hơn, tố chức nào đó trao tặng giải thưởng, khuyến khích cổ vũ thì đáng trách vô cùng. Những người này nếu được đề bạt quản lý cầm cương nảy mực nền văn nghệ nước nhà thì văn chương Việt đi đến đâu? Nhãn tiền ấy mọi người đã rõ!
                                        Hà nội ngày 1 – 6 -2012
                                                  Đ.H.