NGUYỄN
NGỌC PHÚ BỐC THƠM HỮU THỈNH
Đỗ
Hoàng
Hữu Thỉnh không có tài thơ, lại "vi thi lập thân" (Tiến thân bằng
thơ) nên mắc "tứ chứng thi y" (sáo, dở, nhạt, nhắng), nhưng người bốc
thơm Hữu Thỉnh nhiều hơn quân số một trung
đoàn tăng cường. Xin kể một vài vị nổi cộm : Trường Lưu, Thanh Thảo, Nguyễn Trọng
Tạo, Vũ Quần Phương, Mã Giang Lân, Phạm
Quang Trung, Nguyễn Đăng Điệp, Phạm Khải, Nguyễn Hữu Quý, Nguyễn Trọng Hoàn, Thú Tứ (con nhà văn Võ Phiến)... Nay đến lượt Nguyễn
Ngọc Phú. Nguyễn Ngọc Phú bình liền bốn bài: Trông ra bờ ruộng, Thư mùa đông, Bữa
cơm chiều trong dinh Độc lập, Thưa thầy...đạt
kỷ lục ghi nét Xú (đại xấu xa)! Bốn bài này của Hữu Thỉnh rất tầm tầm, nó chỉ
là bích báo (báo liếp) tiểu đội. Đọc xong chưa ngừng hơi đã quên béng đi rồi. Nếu
bốn bài này của một người làm thơ ở Hà Tĩnh, Quảng Bình, Mù Cang Chải...chắc chắn
Nguyễn Ngọc Phú chẳng cất công đọc để chọn in vào tạp chí địa phương Hồng Lĩnh
mà Phú cầm chịch, nói chi đến việc cất công bình. Bình phải được cái chi mới
bình chớ! Hữu Thỉnh chủ tịch hai hội són cho chút bổng lộc là thơm đời rồi!
Nguyễn Ngọc Phú làm thơ, viết văn thuộc thế hệ
sau 1975 nhưng giọng điệu không khác gì cánh cổ động viên cười học, vè học,
khóc học, hát học, ru học, tấu học, reo học, nịnh học... thời chống Mỹ.
Cũng ồn ào, xô bồ, dài dòng văn tự,;
cũng xỉ mũi, lấy khăn mùi - soa lau nước
mắt cá sấu, cũng ba voi không ngọt bát xáo; cũng sớ, tấu hài, tò he rằng choa yêu quê, thương biển, đau đáu thót
tim các em thanh niên xung phong cuốc xẻng sửa đường cho xe qua mất từ đời tu
huýt:
..."Trên
những tấm nilon phơi vội vã
Quần
áo xắn gối lấm bụi đường đỏ quạch
Hạt
thóc nằm mơ mùa vàng thao thức
Hạt
thóc nằm mơ cổ tích
Đêm
quả thị vàng
Nở
ra bao điều lạ
Rang,
Xuân, Xanh, Hợi, Cúc , Tần...
Tiểu
đội 10 cô gái
Mười
ngón tay đan vào nhau
Vương
vương10 mái tóc
Vương
vương10 khuôn mặt"...
(Trường
ca Đồng Lộc)
Tầm
thơ nước hến như thế nên mới bình bài " Trông ra bờ ruộng " thế này.
Nguyễn
Ngọc Phú hót:" Nhà thơ nói “Toan tính”
chứ không nói tính toán. Ở đây có những lượng lự đắn đo thao thức, đó là phẩm
hạnh của một người mẹ Việt thuần nông trước một mảnh bờ quanh quẩn níu bước chân
người. Có cả sự hy sinh cam chịu nhường nhịn hết thảy không không yếu mềm khuất
phục trước những đám cỏ dày chen lấn cây lúa- cỏ hay là những bon chen giành
giật đời thường. Hình ảnh mẹ hiện lên thật đẹp khi “Mẹ tôi gạt cỏ bước lên”.
Gạt cỏ chứ không phải là nhổ cỏ! Gạt là một ứng xử nhiều trải nghiệm sống.
Tiếp: "
Hữu Thỉnh thường có những thổn thức như thế nhói vào lòng người
đọc bằng cảm thông chia sẻ. Thơ lục bát thường tạo ra cảm giác dàn trải, bằng
phẳng, đơn điệu nếu không có những đảo phách tình cảm như thế. Ở đây mẹ “tính
người” nhưng ai tính được cho đời mẹ: “Đồng quang bóng mẹ nắng nôi một mình”.
Thơ hay thường tạo ra những dư ba lay thức. Nhà thơ không nói trực tiếp về sự
hy sinh vất vả của mẹ mà ta lắng được hàm ơn ấy. Tôi bỗng nhớ đến ý một bài thơ
khá sâu sắc của một nhà thơ khi viết về cánh đồng “Mẹ gặt hái cánh đồng hay
cánh đồng sàng sảy mẹ”. Nhà thơ Hữu Thỉnh tung tẩy mà chạm được đến cõi người
nhiều trắc ẩn khi viết về mẹ."
Thật ra bài "Trông ra
bờ ruộng" của Hữu Thỉnh hỏng từ cốt lỏi. Miền Bắc Việt Nam theo chủ nghĩa
cộng sản hoang tưởng đã hô hào ép buộc dân chúng xây dựng xã chủ nghĩa sau khi
nửa nước giải phóng ách đô hội của thực dân Pháp khoàng hai ba năm. Tức là năm
1957, 1958 đã vào tổ đổi công chuyển lên hợp tác xã. Hợp tác xã là một kiểu
trại linh bên Liên Xô thời Nga hoàng. Ruộng đất nông dân bị Nhà nước lấy hết.
Tất cả sung vào hợp tác xã. Nhà nước tuyên truyền là tự nguyện đóng góp cho hợp
tác xã nhưng thực tế là ép buộc sung công, sung của. Có nơi còn cho 5% đất để nông dân sản xuất, nhưng đa phần không
có cục đất quăng chó (!) Thì có người mẹ nào còn có ruộng mà cấy lúa, mà
"trông ra bờ ruộng? Người mẹ của Hữu Thỉnh chắc là làm ăn riêng lẻ? Thời
ấy có mấy ai làm ăn riêng lẻ. Mẹ Hữu
Thỉnh có gan cóc tía mớí đứng ra làm ăn riêng lẻ nên còn có mảnh ruộng (!).
Hoang đường! Như hoang đường xây dựng Xã hội chủ nghĩa "mo cơm quả
cà" (!)
Gia
đình Hữu Thỉnh làm ăn riêng lẻ, không
vào hợp tác thì Hữu Thỉnh làm sao cắp
sách đến trường, làm sao vào đoàn, đội, sau này là vào đảng, làm sao hai anh em
đều được đi bộ đội lên cấp chỉ huy (!) Khoét lác 100%!
Quay lại bài thơ. Hữu Thỉnh làm thơ loại gì cũng tầm thấp. Thơ lục bát như vè, thơ bốn câu kể lể, trường ca dài dòng văn
tự, tấu ,sớ... không có một tí tư tưởng!
" Trông ra bờ ruộng năm nào
Mưa bay trắng cỏ, cào cào cánh sen"
Vè này 100 triệu người Việt ai cũng làm được,
mà làm hay hơn, không bị hỏng như HữuThỉnh. Ai đời nào châu châu loại côn
trùng, sâu bọ hại lúa má ghìn đời nông
dân, hại lúa má mẹ của mình mà vẽ nó "đẹp" như cô gái hoa hậu dancin
(nhảy đầm) - "cào cào cánh sen!". Thực tế có một loại cào cào mà bọn
trẻ chúng tôi ở làng gọi là châu chấu Lưởt. Thân nó dài mảnh, hai cánh ngoài ôm
lấy thân màu xanh lá cây, hai cánh lót nằm trong màu cánh sen đúng như Hữu Thinh tả. Theo quy luật tâm lý con người
không ai đi khen ngợi, tụng ca kẻ phá hoại tài sản, kẻ cướp nước của mình là
xinh đẹp là bậc anh hùng!
"Chúng
nó đến mây mù kéo đến"
(Tố
Hữu)
Thời chống Mỹ, Việt Nam coi Mỹ là kẻ thù muôn
kiếp, nên "Mỹ mà xấu" (Hồ Chí Minh), " Mỹ và đĩ" (Nguyễn
Khoa Điềm - giả mạo đảng viên làm to gần đảng trưởng), "Mỹ Thiệu là loài
giòi bọ" (Tế Hanh - Hai lời rủa và một khúc ca); dân ta nói theo kẻ cầm
quyền: "Không cho chúng nó thoát,
không cho chúng nó thoát chúng bay vào sẽ không có đường ra" ( Lời bài
hát thời ấy). Ngay bọn trẻ học sinh
chúng tôi cũng đả phá ai khen kẻ thù đẹp!
Tôi nhớ quảng năm 1967 lớp 10 hung tôi cra Bắc học sơ tán. Khi đi ngang qua một
bến đò rộng có mấy anh bộ đội sang cùng. Đò đang đi thì ngoài biển có tốp máy bay
"vỹ ruồi" (F105D) phản lực của Mỹ bay ngang. Một anh bộ đội để súng AK nơi hai
bắp vế, chỉ tay lên trời khen nức nở:
"- Các đồng chí thấy không,máy bay Mỹ bay đội hình đẹp quá". Tốp
học sinh sơ tán chúng tôi như đám chim khách xông vào đánh quạ. Thôi thì được
bao nhiêu thơ Chế Lan Viên, Tố Hữu, Xuân Diệu, Tế Hanh ...học được
trong trường nổ súng tiến công:
-
Không được khen giặc Mỹ! Không được khen
máy bay Mỹ bay đội hình đẹp!
-
Giặc Mỹ mày đến đây/ Thì ta tiêu diệt
ngay/ Trời xanh ta nổi lửa/ Biển xanh ta giết mày!
-
Súng chỉa vào căn phòng ta ở/ Dao cứa
trên cổ họng ta ca!
Các anh bộ đội biết
mình sai ngồi đò im thin thít. Bọn tôi cải hơn bộ đội, sướng lắm. Ra đến trường
còn vui!"
"Cào cào cánh
sen" - Hữu Thỉnh làm thơ vụng dại lắm!
Không nên nói nữa, quá
chán. Bài " Trông ra bờ ruộng nên viết thế này mới đúng cảnh các bà mẹ và
nông dân làm thuê trong cái hợp tác, hợp te thời đó:
"Trông ra bờ ruộng
hợp te
Mưa châm trắng cỏ bọ ve
sâu rầy...
Mẹ ta tơi rách nón gầy
Cả mùa công sá chưa đầy
bát cơm.
Một chẽn lúa, vạn huyết
đờm
Bí thơ, chủ nhiệm giành
chơm về nhà.
Đứa con ép buộc tuồn ra
Chân tay mặt mũi giống
ma cà rồng
Mong trời đừng có bất công
Nắng mưa tránh đám ăn
không, ngồi rồi
Mẹ nghèo toan tính một
đời
Làm sao tính được lòng
người hiểm sâu!"
*
Bài "Thư mùa đông" kể về những người lính thời bình ở trên chốt
xa gian khổ thiếu thốn trăm thứ, trầm trọng nhất là thiếu gái nhưng nhạt nhẽo
sơ sài đầy lỗi. Người lính thời bình có gian khổ đến mấy cũng làm sao so được với
người lính thời chiến. Chừng ấy thôi cũng rõ là tài gì làm thơ về lính thời
binh cũng không hay bắng người lính trận mạc đối mặt với sinh tử. HữuThỉnh cũng
lại vụng về, lập ý lập tứ so sánh, sắp xếp...
Cái khổ của người lính
chốt thời bình Hữu Thinh kể ra chẳng thấy
khổ gì cả:
"Gạo thường lên sớm, thư thời chậm
Đài mở thâu đêm đỡ vắng hầm"
Có gạo ăn đầy đủ, có đài nghe thế sang rồi. Đòi gì nữa! Người thợ
sơn tràng khổ nhục hơn nhiều:
"Con không tiền học ta rúc núi
Rú rậm vách lèn như lưỡi gươm
Suổi lũ gạo không còn vét máng
Cặc đái teo dần giống đuôi lươn
Ngọc Trinh ở lỗ nhìn không cảm
Phim sex thâu đêm chẳng cứng dùi
Đàn bà hai nửa, đàn ông một
Cái kiếp sơn tràng, phận chó thui!
(Thơ minh họa - Đỗ Hoàng)
Hữu Thỉnh rất vụng khi nói đến cái khát khao tình dục của người
lính,
Ví
dụ trong bài thơ này như:
" Bao năm không thấy
màu con gái
Vó ngựa ngoài kia ngỡ
guốc em"
Người tình của Hữu Thỉnh
phải to như con voi mới có tiếng guốc như tiếng vó ngựa (!).
Nó dở và kém không còn
nước nào nữa mà chê! Nó thua xa câu ca cũ của người lính xưa:
"Tam niên tại ngũ
Trư lão như tiên"
(Ba năm chui lủi chiến
trường
Gặp con lợn nái tưởng
nường tiên sa)
(Đỗ Hoàng dịch)
Nguyễn Ngọc Phú phùng
má trợn mắt hà tha hà thít nịnh thối " con vịt hai chân" như: " "Hai câu thơ hay nhất, ấn
tượng nhất và tài hoa thi sĩ trực cảm nhất vốn là thế mạnh của Hữu Thỉnh khi
ông “chộp” được một ám ảnh bất ngờ: “Quanh năm không thấy màu
con gái/ Vó ngựa nghe thầm tiếng guốc em…”. Tôi cứ hình dung ra “màu
con gái” và hương của cả nét đẹp bình dị thôn quê cứ “lộc cộc” xen
vào như tiếng đập dồn của con tim rạo rực: “Vó ngựa nghe nhầm tiếng guốc em”
thật là thần thái và diệu vợi biết bao. Phải thật tinh tế, sâu sắc, phải thật
thi sĩ Hữu Thỉnh mới có cái liên tưởng thần kỳ ấy. Giữa “vó ngựa” của
người lính biên phòng với tiếng “guốc em” như là những âm thanh thường
trực bao khao khát. Như là một sự bình yên thường trú ngay trong tận sâu thẳm
trong tâm hồn người lính."
Đến mức
này thì Vũ Quần Phương, Mã Giang Lân, Lê Thành Nghị, Phạm Quang Trung, Nguyễn
Đăng Điệp, Thanh Thảo, Nguyễn Trọng Tạo, Nguyễn Hữu Quý...cũng phải xin vái
Nguyễn Ngọc Phú ba vái (!)
Bài Thưa
thầy là một bài toàn tòng sáo rỗng, đại ngôn từ đầu đến cuối đậm đặc chất Hữu Thỉnh,, và rất nhạt nhèo, không tí rung
động tình thầy trò:
"Đã vấp ngã
thưa thầy
nhiều vấp ngã!
Chẳng ở đâu xa, ở ngay giữa con người
Em bước đi lặng lẽ nghĩ về thầy
Đời mau quá, vui buồn chưa kịp cũ
Đời mau quá, tóc thầy khói phủ
Giáo án mong manh bão giật đời thường
Cây trước cửa gió ở ngoài trang vở
Thầy một mình vật vã với văn chương"
Rồi lại vô cùng "tứ chứng thi y"
(sáo, dở, nhạt, nhắng):
"Đang mưa bão đường
về sông nước ngập
Giở trang Kiều thầy giảng chạnh lòng đau."
Lộ ý, lộ tứ không ra làm sao.
Không một ma xó nào đau cả. Tác giả viết ra có
đau đâu mà đọc giả đau (!)
Nhà
toán học Phan Đình Diệu kể một kỷ niệm về người thầy, tôi đọc bao năm rồi vẫn
còn nhớ, vẫn còn xúc động:
Phan Đình Diệu:
"Tôi vừa kịp dấu mấy khúc sắn tươi thì
thầy Nghĩa đã mở cổng vào nhà. Thầy ngồi xuống chõng tre, đưa mắt nhìn quanh
hỏi liền:
-
Có cái chi ăn khôông?
Tôi thưa thật:
-
Dạ thưa thầy, nhà không có chi ăn được!
Thầy tiếp:
-
Có sắn tươi không?
Tôi bẽn lẽn
thưa có. Thầy bảo:
-
Đem ra đi!
Tôi vào lấy
mấy khúc sắn vừa dấu đưa ra cho thầy. Thầy Nghia quơ bình vôi của mệ, lấy sắn
quệt vôi chấm muối ăn ngon lành!"
Tôi đứng nép
vào phên cảm thấy mình như là người có lỗi!
Bài của Phan
Đình Diệu xúc động vạn lần bài "Thưa thầy" dở hơi của Hữu Thỉnh.
Ta hãy nghe Nguyễn
Ngọc Phú bốc:
"Thưa thầy là
một lời thưa cũng chính là lời tự thú. Anh đã nhận ra: “Đã vấp ngã. Thưa
thầy nhiều vấp ngã!/ Chẳng ở đâu xa, ở ngay giữa con người “.
Câu thơ tự nhiên uốn khúc bậc thang như những chỗ ngoặt của cuộc đời khi mà: “Đời
mau quá, vui buồn chưa kịp cũ”. Chỉ với mau và cũ đã
tạo cho ta một trạng thái chênh vênh tốc độ và đậm nhạt thời gian. Vấp ngã ngay
giữa con người là cách nhìn thẩm thấu và sâu sắc nhiều trực cảm. Hữu Thỉnh là
thế, anh luôn thổn thức với đời bằng lắng lặng lắng sâu, bằng cách nói dung dị
nhưng chạm được lõi hạt nhân tình người nhân hậu. Không phải ngẫu nhiên mà nhà
thơ đã hai lần thảng thốt nhắc lại: “Đời mau quá“. Mới biết Thương
lượng với thời gian(1)là một bản ký kết hết sức ngặt nghèo và tự
nguyện. Nhà thơ đưa ra một vài hình ảnh tương phản. “Tóc thầy khói phủ”chứ
không phải là tóc bạc và “Giáo án mong manh” đối với “Bão giật
đời thường”. Chỉ vài nét chấm phá chan chứa cảm thông đã vẽ nên chân dung
người thầy giáo trong gian khó đời thường."
Nịnh bầy giờ cũng tán dóc, cũng uốn éo như
vũ nữ. Đúng là "xảo ngôn nịnh sắc, tiện sỉ nhân"!
*
Bài "Bữa cơm chiều trong
dinh Độc lập "là một bài sáo rỗng trụi lui, xơ cứng càng cua dán trên tờ
báo liếp của tiểu đội. Cuộc đánh nhau hai miền Nam Bắc Việt Nam mà Bắc Việt xóa
sổ NamViệt đáng ra không nên ca mãi. Vì nó huynh đệ tương tàn, nồi da xáo thịt.
Thằng anh gian hơn, xỏ lá hơn, ác hơn, nghèo đói hơn, lạc hậu hơn, man di hơn,
bần tiện hơn...đã thắng thằng em. Thôi đóng cửa bảo nhau, rút kinh nghiệm. Bài
thơ khuất lấp ba bốn chục năm, Nguyễn Ngọc Phú lôi ra tán dóc !
Mở đầu bài thơ đã thấy sáo rồi. Vừa chiếm
được dinh Độc lập cả miền Nam chìm trong hoảng loạn. Dân tình như chim vỡ tổ.
Già không có cháo húp, trẻ không có sửa bú, không thương người bị nạn, đi thương
nhà báo. Thương nhà báo cũng được thôi, nhưng nhà báo phe chiến thắng còn sướng,
còn sang hơn chục lần thằng lính chiến:
..." Khách thường: thương mấy anh nhà báo
Theo tăng băng dốc mấy mươi ngày
Sáng chiếm núi Bông, chiều Cửa Thuận
Vượt đèo Phước Tượng buổi chiều mây."...
Theo tăng băng dốc mấy mươi ngày
Sáng chiếm núi Bông, chiều Cửa Thuận
Vượt đèo Phước Tượng buổi chiều mây."...
Nhạt
thếch, vô vị, sến! Rồi cả bài toàn là ầm ào, đại ngôn, đại sáo:
..."Kìa gắp đi anh, ai nấy
giục
Có gắp chi đâu, mải ngắm trời
Tự do xanh quá, mênh mông quá
Vượt mấy ngàn bom mới tới nơi"
Có gắp chi đâu, mải ngắm trời
Tự do xanh quá, mênh mông quá
Vượt mấy ngàn bom mới tới nơi"
Tự do đi trấn lột thằng em, tự do ăn cướp, tự do có mất đâu mà gào: " Tự do xanh
quá, mênh mông quá". Đọc nghe gượng gạo, mùi thum thủm!
Rồi nhớ lãnh tụ. Hình
như bài thơ nào của Hữu Thỉnh, của cánh thơ mậu dịch đều cho chút "vị tinh"
này vào để bát canh "thơ" cho ngọt , cho có tính đảng, yêu lãnh tụ, tính
yêu nác(!):
"Bỏ lại đằng sau bao trận đánh
Kịp vào thành phố sáng tên Người
Độc lập theo tăng vào cổng chính
Cờ treo trên đỉnh nước non ơi!"
Kịp vào thành phố sáng tên Người
Độc lập theo tăng vào cổng chính
Cờ treo trên đỉnh nước non ơi!"
Rồi lại như động rồ:
reo, hò, hát, cười, say, tấu, ca cải lương:
"Ta trẻ như cờ ta trẻ lắm
Ta reo trời đất cũng reo cùng
Ta no cười nói, say đôi mắt
Bát canh ngày hẹn cũng mênh mông."
Ta reo trời đất cũng reo cùng
Ta no cười nói, say đôi mắt
Bát canh ngày hẹn cũng mênh mông."
Hày xem Nguyễn Ngọc
Phú tung chiêu bốc thơm:
"Nhà thơ Hữu Thỉnh - người lính trực tiếp
cầm súng với tư cách là phóng viên mặt trận đã có mặt tại Dinh Độc Lập và anh
ghi lại “Bữa cơm chiều trong Dinh Độc Lập” thật độc đáo và cảm động trong giây
phút thiêng liêng ấy. Góc độ của nhà thơ như một ống kính thu nhỏ đến từng chi
tiết nhưng góc mở của tâm hồn thì nới rộng vô biên. Bài thơ viết thật giản dị,
có sự phát hiện tinh tế khi anh nhận ra “Hàng cây so đũa cùng ta đó”. Nhà thơ
Hữu Thỉnh thảng thốt: “Trời còn đầy ắp hoa và pháo/Nhìn nhau chưa vội mở vung
ra”. Giữa chói lọi sắc hoa chiến thắng với bữa cơm dã chiến nấu bằng bếp điện,
anh đã nhận ra “Rau muống xanh như hái tự ao nhà”. Chỉ một câu thơ ngắn đã lẫy
ra được phía sâu thẳm của tâm hồn người lính thi sĩ. Cái gạch nối giữa chiến
trường và hậu phương được rút ngắn lại. Đó cũng là nét đặc trưng thuần Việt của
anh lính Cụ Hồ."
Và Phú nịnh tiếp:
" Nhà thơ Hữu Thỉnh không nén được niềm vui quá lớn, anh đã reo lên “Tự do
xanh quá” là sức xanh trỗi dậy từ tâm hồn người lính trẻ. Chỉ tiếng reo thôi đã
cắt nghĩa được vì sao chúng ta chiến thắng, không cần phải lý giải nhiều lời,
tất cả đều được ghi lại bằng cảm giác ấn tượng của tâm hồn. Đó chính là chất
thơ lung linh lan tỏa từ hiện thực khắc nghiệt của đời sống. Nếu không có cái
thảng thốt ấy thì bài thơ giống như một ghi chép báo chí giảm hẳn sức truyền
cảm thuyết phục".
Nhà thơ Việt Nam, nhất là đám cổ động viên, văn
nô, tầm thi sĩ rất thấp, tầm chuột nhắt! Các nhà thơ Nga, tầm thi sĩ như núi
Hymalaya, cao vời vợi. Người ta đánh tan bấy phát xít, kẻ thù nguy hiểm của
nhân loại nhưng người ta cảm nhận nỗi đau của con người trong chiến tranh bởi từ
lòng yêu quê hương người thân tận gan ruột của họ:
"Đất không phải
đất quê mình
Cánh đồng sẩm nước êm
lành bao la
Hương
mùa dìu dịu bay qua
Có
gì thân đến sâu xa lạ thường
Ô
hay là trận bão ròng
Trải
bình dị thế qua đồng qua khe
Lăn
tăn màu cỏ non kia
Có
gì đâu khác bên quê xứ mình
Tưởng
trong giây phút thình lình
Chưa
hề có cuộc chiến tranh qua rồi
Chưa bao cách trở xa xôi
Chưa
bao nguy hiểm đứng ngồi không yên
Vợ
mình hẳn đã già thêm
Con
mình độ ấy lớn lên bao rồi
Mình
qua cả cuộc đổi đời
Hương
mùa xuân mãi bồi hồi nỗi chi!"
(Trên
đất Đức - Bằng Việt dịch)
*
Những
kẻ tâng bốc, nịnh thối Hữu Thỉnh không vì văn chương, thi ca; họ vì cái bao tử,
vì danh vị hảo, danh hiệu hảo, vì phần
thưởng ... kiểu "bà đưa chân giò, ông thò chai rượu". Mà Giang
Lân, Vũ Quần Phương nịnh Hữu Thỉnh được Hữu Thỉnh cho giải thưởng Hội Nhà văn,
giải thường Nhà nước. Nguyễn Đăng Điệp, Nguyễn Trọng Tạo, Thanh Thảo... cũng vậy.Thu Tứ được Hữu Thỉnh xếp Việt kiều yêu nước cho hai ba nghìn đô la mời về dự hội
nghị Đại đoàn kết dân tộc! Nguyễn Ngọc Phú được chọn làm Uỷ viên Hội đồng thơ,
được đi Ấn Độ miễn phí... Chẳng đứa nào nịnh công không!
Thêm tâm tôi, tôi rất nể phục, kính trọng dân
Nghệ Tĩnh, nhất là Hà Tĩnh về mặt văn chương. Hà Tĩnh có đại thi hào Nguyễn Du,
thi hào Nguyễn Công Trứ; hiện tại có Xuân Diệu, Huy Cận. Nay nảy nòi ra hai gã
nịnh thối một cách trơ trẽn, thô lậu là Lê Thành Nghị và Nguyễn Ngọc Phú. Chữ nghĩa
bài viết của họ in rành rành, không chối cải được!
Hà
Nội 3 - 6 - 2019
Đ
- H
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét