Vĩnh Nguyên
NGƯỜI VIẾT BÁO CŨNG CÓ CÁI DUYÊN CỦA NÓ
Boong tàu lau xong sạch bóng. Toàn thể mọi người tập trung boong
trước ăn
sáng. Ăn xong, tôi cùng một số anh em cụm lại (cũng ở boong trước)
nghe đài
tiếng nói Việt Nam. Hồi ấy, toàn phân đội, tàu nào cũng được phát
một cái đài
orionton để nghe tin tức, nghe chương trình ca nhạc vào những giờ
nghỉ…
Tôi nhìn thấy tay liên lạc tiểu đoàn từ trên bờ bước xuống cầu
thang tàu rồi lên
tàu. Như đã quen, tay liên lạc chui vào khoang thuyền trưởng. Một
lát sau, thuyền
trưởng Nguyễn Hoàng Thiết cùng tay liên lạc đi lên và tới chỗ
chúng tôi. Thuyền
trưởng Thiết nói với tôi: “Đồng chí Vinh, về phòng thay quân phục
chỉn chu rồi lên
tiểu đoàn có việc gấp.”
Tôi cùng tay liên lạc đi lên tiểu đoàn đang đóng quân trong các
nhà dân làng Hạ
Đoạn. Vừa đi, tôi tò mò hỏi tay liên lạc cùng cấp binh nhất: Cậu
có biết tiểu đoàn
gọi tớ lên là việc gì không? Hắn ta nói: Có ông bộ binh mang quân
hàm trung úy
(ngang cấp tiểu đoàn trưởng) đang trao đổi công việc chi đó. Thì
cứ lên rồi biết.
-Báo cáo tiểu đoàn
trưởng, tôi binh nhất Nguyễn Quang Vinh, báo vụ tàu 171,
tiểu đoàn 200, có mặt!
-Rất tốt, tiểu đoàn
trưởng nói rồi chỉ chiếc ghế trống đối diện trung úy bộ binh
đang ngồi. Trung úy bộ binh có khuôn mặt rất tươi đã chăm chú nhìn
tôi từ lúc tôi
bước vô nhà và đứng nghiêm đưa tay chào theo quân lệnh.
Tiểu đoàn trưởng 200 vẫn ngồi yên trên ghế của mình.
Trung úy bộ binh quay nhìn sang tôi, nói: Tôi tên là Nguyễn Phúc
Nghiệp
(không nói rõ chức vụ) ở báo Quân đội Nhân dân. Chúng tôi đã đọc
mấy bản tin,
bài của đồng chí gửi đến báo chúng tôi. Tòa soạn chúng tôi rất
quý. Nhưng cánh
hải quân ít bài lắm. Cánh bộ binh thì bài vở quá nhiều. Vì ít nên
càng quý. Trung
úy Nghiệp nói tiếp: Tôi vừa trao đổi với tiểu đoàn trưởng của đồng
chí, là đồng chí
Vinh đã có ý thức về đơn vị của mình, tuyên truyền việc làm tốt
của đơn vị lên mặt
báo. Chúng tôi nhận thấy qua những bài đồng chí gửi tới, đồng chí
rất có khả năng.
Nếu chịu khó trau dồi, cần mẫn học tập rồi viết nhiều hơn nữa,
tương lai, đồng chí
sẽ trở thành một nhà báo chuyên nghiệp.
1
·
Tôi lặng lẽ không biết nói gì.
Tiếp đó, Trung úy Nghiệp mở cặp rút ra một tờ giấy đã in sẵn,
những hàng
có dấu chấm chấm (…) cũng đã ghi rõ họ tên, tuổi, quê quán, đơn vị
công tác của
tôi. Ở phía dưới đã có đóng dấu đỏ của báo Quân đội và người ký.
(Người ký cấp
hàm cao hơn trung úy Nghiệp). Trung úy Nghiệp nói tiếp: Chúng tôi
muốn đồng
chí Nguyễn Quang Vinh làm cộng tác viên của báo Quân đội Nhân dân,
nếu đồng
chí Vinh đồng ý thì kí vào đây. Trung úy Nghiệp đưa bút cho tôi,
và tôi đã ký tên.
Từ đó, tôi thành cộng tác viên của báo quân đội Nhân dân Việt Nam.
(Khi
đó vào khoảng gần cuối năm 1964).
Trên đường từ trụ sở tiểu đoàn về tàu, tôi nghĩ lại những bản tin,
những bài
báo đã gửi cho báo Quân Bạch Đằng (báo lưu hành nội bộ của Bộ tư
lệnh Hải
quân) và báo Quân đội Nhân dân. Tôi lẩm bẩm trong mồm: Ồ cái thằng
Vê, dân
biển Thanh Khê tham gia cuộc thi bơi lội “ Vượt sông Bạch Đằng
truyền thống
toàn quốc”, giật được cái giải bét mà tòa báo Quân đội Nhân dân chú
ý tới mình
đến vậy ta?
Sau đó không lâu, tôi được mời dự Hội nghị cộng tác viên của báo
Quân
Bạch Đằng.
Từ bến cảng Hạ Đoạn cuốc bộ lên Hải Phòng, đến Bộ tư lệnh Hải quân
phải
mất hơn hai giờ đồng hồ.
Phòng vô tuyến điện của tôi cùng khoang tàu với thuyển trưởng.
Tôi thức dậy lúc 5h kém 10. Chuẩn bị lên boong sau đuôi tàu đánh
răng, rửa
mặt, thì đã nghe ba tiếng gõ cửa cóc cóc cóc. Tôi mở cửa, Thuyền
trưởng Nguyễn
Hoàng Thiết ha hả cười: Dậy rồi à, sáng nay khỏi tập thể dục với
anh em. Vinh đi
bộ lên tới đó là thể dục rồi. Họ đã mời dự Hội nghị một ngày chắc
là có ăn bữa
sáng. Nhưng theo tớ, tới trước cổng Bộ, quanh đó thiếu gì quán mì
kẹp thịt, cứ xơi
một ổ cho chắc bụng. Rồi vào Hội nghị với người ta. Nhớ ghi chép
cho kỹ người ta
nói những gì. Đồng chí Vinh được đi dự Hội nghị viết báo là vinh
dự cho cả phân
đội và tiểu đoàn ta đó nghe.
Đúng như lời thuyền trưởng Thiết dặn dò. Tôi trình giấy tờ ở cổng
gác rồi đi
vào. Đoàn quân “tập viết báo” từ trong nhà ăn đã ăn xong đi ra.
Nhiều người đang
xỉa răng, uống nước trước một cái hành lang rất dài. Có một trung
sĩ nói với tôi:
Đồng chí binh nhất ở đoàn nào, chắc ở xa giờ mới tới, chưa ăn sáng
chứ gì, vào ăn
đi, phở còn nhiều lắm. Tôi nói tôi mới tới thật, nhưng tôi đã ăn
rồi. Tôi trả lời qua
2
·
loa cho xong chuyện. Bởi là lần đầu khá lạ lẫm nên tôi chú ý xem
những ai cùng
binh nhất với tôi. Hóa ra có cả binh nhì, hạ sĩ, trung sĩ đông
hơn. Cấp sĩ quan có
nhiều chuẩn úy, một số thiếu úy (ngang cấp thuyền trường Thiết),
lác đác chỉ vài
trung úy.
Vào Hội nghị, chính cậu trung sĩ khi nãy lên nói nội dung chương
trình Hội
nghị cộng tác viên của toàn binh chủng Hải quân (Hội nghị chỉ một
ngày) và giới
thiệu giảng viên. Người giảng viên tên họ gì đến giờ tôi không còn
nhớ nữa, chỉ
nhớ một ông trung úy, nói tiếng trọ trẹ giọng như người quê miền
Trung Hà Tĩnh
hay Nghệ An rất dễ nghe là giảng viên chính. Ông là phó Tổng biên
tập báo Quân
đội Nhân dân Việt Nam từ Thủ đô Hà Nội mà Bộ tư lệnh Hải quân mời
về giảng.
Còn vị trung sĩ lên giới thiệu chương trình, sau này nhân ngày chủ
nhật, tàu 171
của tôi vào đốc sửa chữa, tôi được phép lên thành phố Hải Phòng
chơi, anh em tàu
thường gọi “bát phố”, tôi tới thẳng báo Quân Bạch Đằng mới biết vị
trung sĩ kia là
nhà báo Sĩ Thoại, phụ trách tờ báo “lưu hành nội bộ” của Bộ tư
lệnh Hải quân. Tôi
còn biết thêm Đình Kính, Sĩ Hưởng, Lê Hoài Nam, Lương Sơn… là
những tay bút
cừ khôi của báo Quân Bạch Đằng thời đoạn đó.
Ông giảng viên đang nói chính trị về tình hình miền Nam (trong
chương
trình là một giờ) nào nhân dân miền Nam đang nổi dậy như thế nào
để chống lại sự
kìm kẹp của chính quyền Sài Gòn và quân đồng minh đang nhảy vào…
Toàn
những chuyện nhàm chán tôi đã nghe các buổi học chính trị ở Tiểu
đoàn, Trung
đoàn…
Nhưng đến giờ sau, cho đến hết cả buổi chiều, ông giảng về chuyên
môn nên
tôi tập trung hết sức cao độ: Nào là, giờ các đồng chí đang viết
tin ngắn, tin dài,
những việc làm tốt và những sai sót ảnh hưởng đến danh dự của
người chiến sĩ
cách mạng… Các đồng chí cần nêu gương người tốt việc tốt. Ông nhấn
mạnh: Phải
tìm các gương điển hình, phải nêu bật cái dũng khí của họ, giả dụ
như lúc bị
thương, vượt qua hiểm nghèo như thế nào…tư tưởng, bản lĩnh ra sao
và trực diện
chiến đấu với quân thù…Viết gương người tốt việc tốt (bây giờ gọi
là phi hư cấu)
vẫn thành truyện ngắn hay mà như báo Quân đội Nhân dân thường cho
in. Báo
Quân Bạch Đằng của ta đây cũng đã in những gương như vậy rồi,
nhưng, tôi nhấn
mạnh chữ nhưng là phải tìm những gương điển hình cao nhất, lột tả tính cách của
họ, và chi tiết, rất cần chi tiết sống động của họ… khi ấy mới có
thể nên “ truyện”
được.
Cuối giờ. ông tươi cười nói lời tạm biệt: “Tòa báo Quân đội mong
nhận
được rất nhiều và rất nhiều... những bài báo tốt từ lớp tập huấn
này”.
3
·
Đồng chí trung sĩ mời cả lớp ra sân chụp ảnh kỷ niệm trước khi ăn
bữa cơm
thân mật để chia tay. Sau đó, báo Quân Bạch Đằng gửi về cho tôi
một tấm ảnh.
Tấm ảnh rặt toàn lính mặc áo trắng, yếm trắng sọc xanh, không mũ.
Tôi cố giữ tấm
ảnh này nhưng bây giờ không biết nó đã biến đi đâu?
Sau đó không lâu, tôi nhận được báo biếu, báo Quân Bạch Đằng rồi
tiếp báo
Quân đội Nhân dân in bài của tôi. Báo Quân đội Nhân dân có gửi
nhuận bút còn
báo Quân Bạch Đằng “lưu hành nội” thì không. Tôi lại được bát phố
đến 61 phố
Cầu Đất mua lạng chè móc câu và cân kẹo lạc đường trắng về khao
anh em tàu 171
thân yêu. Tôi xin phép lên Hà Nội hai ngày. Tôi tìm tới các hiệu
sách và mua được
trọn bộ giáo trình Đại học
tổng hợp văn. Tôi mừng quá ôm nó về tàu tự học. ( Sau
này, khi biết cô em dâu Đỗ Thị Khẩn đang học khóa học 10+3 ra dạy
cấp 2, tôi đã
gửi bộ giáo trình này cho Khẩn để cô có thêm cứ liệu giảng
dạy).Tôi tiếp ra bưu
điện Hải Phòng đặt mua dài hạn ba loại báo và tạp chí: Tuần báo
văn nghệ, tạp chí
Văn nghệ Quân đội và tạp chí Tác phẩm mới. Lấy địa chỉ trên bờ là
cảng vụ X46
Hải Phòng. Tôi không quên dặn người phụ trách cảng vụ giữ báo cho
tôi trong
những lúc tàu đi làm nhiệm vụ.
Chiến sự miền Nam giữa quân dân ta với đồng minh chính quyền Sài
Gòn
ngày càng khốc liệt. Chúng hay cho tàu nhỏ chạy nhanh vượt tuyến
ra quậy, khiêu
khích vùng biển Vĩnh Linh và phía Bắc đảo Cồn Cỏ.
Rồi sự kiện vịnh Bắc bộ xảy ra. Phân đội có ba tàu, trong đó có
tàu 171 của
chúng tôi nhận nhiệm vụ vào ém ở cửa sông Gianh. Ôi gần nhà quá!
Qua huyện Bố
Trạch, qua thị xã Đồng Hới là tới quê tôi rồi. Một số anh em quê
Bố Trạch, Quảng
Trạch gần đôi bờ sông Gianh được thuyền trưởng linh động (thay
nhau) về thăm
gia đình bốn đến năm giờ đồng hồ. Còn chỉ một mình tôi là vô tuyến
điện nên
không được rời tàu.
Sự kiện lịch sử xảy ra với Hải quân nhân dân Việt Nam: vào khoảng 3h
chiều ngày mồng 5 tháng 8 năm 1965, không quân Mỹ tập kích ra miền
Bắc đánh
phá 3 nơi: Cảng sông Gianh (Quảng Bình), Lạch Trường (Thanh Hóa)
và Quảng
Ninh.
Ba tàu phân đội rời bến ra giữa sông Gianh. Tôi được lệnh bỏ máy
trực vô
tuyến điện lên boong chuyền đạn. Trước khi chuyền đạn cho khẩu đội
pháo boong
trước, tôi lên đài chỉ huy lắp máy bộ đàm lên đầu thuyền trưởng để
nhận lệnh chiến
đấu với phân đội trưởng đang trên một chiến hạm khác. Máy bay Mỹ
lao tới.
Chúng lượn một vòng trên quân cảng. Pháo tàu phân đội được lệnh nổ
súng rần
rần. Bốn phi cơ Mỹ lượn trắng bụng trên dòng sông Gianh và thi
nhau phóng bom.
4
·
Lúc ấy, tôi đang trên đài chỉ huy chưa kịp xuống boong tiếp đạn.
Tàu 171 trúng
bom khói đạn mịt mù trùm kín. Đồng chí lái tàu ngã xuống dưới chân
tôi hy sinh.
Thuyền trưởng nhảy qua cầm tay lái. Tôi bị thương ở đùi phải.
Thuyền trưởng vẫn
bình an.
Sau một giờ bắn phá, quân cảng sông Gianh đã bị đánh sập. Máy bay
Mỹ đã
cút. Hai tàu có chiến sĩ hy sinh, bị thương được lệnh cập cảng phụ
làng Thuận Bài
để nhờ địa phương an táng số quân hy sinh và băng bó thương binh.
Tôi được lên
bờ, chân đi cà nhắc. Một ông nông dân cao lớn sốc nách tôi lên
lưng cõng vào một
ngôi nhà cạnh bờ sông để các cô y tá băng bó cho nhiều người.
Số chiến sỹ an lành được lệnh lấy những thoi gỗ đã cất sẵn trong
kho và búa
ra nêm chặt hai mạn tàu bị nhiều lỗ thủng. Người bị thương nặng
được lệnh ở lại
địa phương chăm sóc. Tôi bị thương nhẹ, băng bó xong, tôi xin trở
lại tàu. Tôi nhìn
hai mạn chiến hạm 171 như nhìn con nhím đang xù lông thế thủ trước
địch thủ
muốn tấn công mình.
Đêm đó, tàu 171 được lệnh về đốc Hải Phòng sửa chữa. Còn hai tàu
của
phân đội vẫn ở lại sông Gianh.
Chiến hạm 171 bị thương tích đã đưa chúng tôi về đốc X46 Hải
Phòng.
Phiên họp toàn thể tàu, thuyền trưởng công bố số anh em quê Hải
Phòng
được nghỉ phép ba ngày. Nếu ai là ngành trưởng các ngành phải nộp
lên cho
thuyền phó bản “kế hoạch sửa chữa” của ngành, mới được rời tàu.
Thuyền phó lên cảng vụ báo cơm. Tôi cũng theo thuyền phó lên đó để
lấy
báo. Báo tuần, tạp chí tháng tôi đặt về đây cuộn tròn như những
ống thổi lửa khá
nhiều. Tôi kiếm sợi dây bó thành một bó to vác về phòng. Số anh em
thích đọc tạp
chí Văn nghệ quân đội, tôi cho họ mượn bớt. Còn tôi, cứ theo dấu
bưu điện ngày
báo tới mà mở ra đọc dần dần...
Nhà máy đóng tàu Bạch Đằng đã sơ tán nhiều loại máy ra các bến
bãi, che
lán để hoạt động. Nhờ thế, tôi làm quen một cháu gái mới 16 hoặc
17 tuổi tên Nga
xin vào nhà máy học làm thợ máy. Nga kể, nhà cháu chỉ có 3 người
là bố, mẹ và
Nga, nhà đang ở phố Thượng Lý, gần cầu Thượng Lý.
Tàu 171 sắp hạ thủy. Mà hạ thủy là phải đi xa. Tàu phân đội hai
chiếc đang
hoạt động vùng biển khu 4, Quảng Bình. Tôi tâm sự với thuyền
trưởng Thiết:
phòng báo vụ nhỏ hẹp nhất tàu, mà sách báo, tạp chí chật ních. Vậy
xin thuyền
trưởng cho sơ tán chúng nó
lên bờ. Sơ tán lên đâu? Gần cầu Thượng Lý, nhà cháu
5
·
Nga vào nhà máy Bạch Đằng học làm thợ máy. Nhiều vậy phải đi mấy
chuyến mới
hết? Báo cáo thuyền trưởng chỉ một chuyến thôi. Em cho hết vào hai
bao tải. Em
đã liên hệ được cái xe đạp không chuông, không phanh, của bác đi
chợ trên cảng
vụ. Mày giỏi thật. Làm nhanh lên. Không kịp với máy bay Mỹ thì toi
giữa đường.
Tôi chuyển được hai bao tải lớn sách báo, tạp chí tới nhà cháu Nga
bên kia
cầu Thượng Lý khi cháu Nga không có ở nhà.
... Cũng năm 1965, điểm mà không quân Mỹ ném bom đầu tiên xuống
Hải
Phòng là cầu Thượng Lý. Chúng muốn cắt đứt mạch giao thông đường
bộ chính
giữa hai thành phố lớn Hải Phòng – Hà Nội.
Tàu 171 đang hoạt động dài ngày ở một tọa độ xa được lệnh trở về
Hải
Phòng. Tàu vừa cập cảng đã nghe xôn xao máy bay Mỹ vừa đánh phá
cầu Thượng
Lý. Chúng đánh nhanh rồi rút nhanh. Chúng tập kích bất ngờ. Nhưng
lực lượng
phòng không Hải Phòng đã
cảnh giác. Rada ta phát hiện sớm đã cho nổ súng đón
đầu nên chúng thi nhau bổ nhào, dội bom nhưng không trúng cầu mà
trúng vào các
nhà dân. Tin cho biết nhiều người bị thương và một bé gái chết
cháy thiêu, tội lắm!
Chắc nhà cháu Nga bị rồi? Họ có đi sơ tán không? Hay đã đi sơ tán
nhưng
chủ quan lại trở về nhà? Những băn khoăn của tôi, tôi trình bày
với thuyền trưởng.
Và xin thuyền trưởng cho tôi chạy nhanh lên đó xem tận mặt rồi
chạy về. Thuyền
trưởng nói: tàu mới về có lệnh gì cấp tốc vì sao? Nhưng ông cười
rồi đổi giọng
thân mật: Tớ cho cậu chạy 2 tiếng có kịp không? Tôi bảo kịp. Ông
lại bảo: Tớ cho
cậu mặc thường phục, buộc giày cho chặt mà chạy!
Tôi làm i như vậy.
Cầu Thượng Lý chưa bị sập. Tôi vượt qua. Nhà cháu Nga bị sập hoàn
toàn.
Tôi hỏi nhiều người gần đó về những người trong gia đình nhà cháu
Nga có ai việc
gì không. Họ nói cả nhà đó đi sơ tán nên chưa hề biết nhà mình bị
cháy bị sập. Tôi
nhìn qua nhà xa xa 100m nhiều người xôn xao, có người khóc. Tôi
lại hỏi nhiều
người. Họ bảo: Chú qua đó mà xem. Tội nghiệp lắm, một cháu gái 10
tuổi bị bom
thiêu đen thui. Bố mẹ nó còn sống đang cấp cứu ở bệnh viện. Giờ bà
con đang tính
an táng cháu như thế nào? Tôi lại chạy ù qua đó. Đúng là một bé
gái bị cháy đen,
tóc sém vàng. Gia đình này đã đi sơ tán bỗng mang cả con về...Tôi
vừa chạy về tàu
vừa khóc tức tưởi như khóc cho đứa em gái của mình... Tôi chạy trở
về tàu không
nhanh như lúc chạy đi. Bởi chỗ vết thương ở đùi mảnh đạn vẫn còn
nằm trong đó.
Khi làm thuốc y tá chỉ rửa qua thuốc đỏ rồi băng mà đâu biết mảnh
đạn chui vào
sâu. (Đến bây giờ, mảnh đạn vẫn còn trong người tôi. Mùa lạnh giá
có buốt đôi
6
·
chút, còn bình thường thì không hề gì, nó đã thành quen. Các con
tôi có phàn nàn:
Sao ngày trước ba không giải phẫu vết thương, làm thẻ thương binh?
Giờ mỗi kỳ
thi, ba biết không, các con được cọng thêm một điểm rưỡi! Tôi
quát: Việc các con
học là lo học cho giỏi. Còn đây là việc của ba. Bạn ba vừa đồng
đội vừa đồng
hương ngã chết dưới chân ba thì bây giờ gia đình người ta được
những gì? Ba là
thủy thủ. Ba còn khỏe, chớ lo. Bruce Weigl - Nhà thơ nước Mỹ, năm
1967 là lính
chiến ở chiến trường Quảng Trị, nay cùng Đoàn Nhà văn Mỹ sang thăm
và giao
lưu với Nhà văn tỉnh Thừa Thiên- Huế, qua Đào Kim Hoa phiên dịch,
tôi và Bruce
vui vẻ nắn bóp vết thương của nhau. Sau đó, tôi viết “ Brucs Weigl
và tôi” có câu:
… Rồi chúng tôi sờ nắn vết thương nhau/ Như
hỏi nơi ấy có còn đau?). Nay chạy
nhanh, chạy lâu căng cơ nên rất đau. Nhưng vì sợ trễ giờ tôi vẫn
chạy. Tôi tin với
tốc độ tuy hơi chậm nhưng vẫn chạy liên tục vẫn kịp giờ.
Tôi bước lên tàu là nằm vật ra boong. Thuyền trưởng cười còn hoan
nghênh:
Giỏi, còn những 15 phút kia đấy!
Nhớ em bé bị chết cháy, tự nhiên tôi nhẩm hai từ “ngọn lửa”. Tôi
nghĩ: lửa
này không phải lửa đạn của quân thù mà là ngọn lửa căm hờn tột độ
của nhân dân
ta với quân đế quốc dã man! Và đêm đó tôi viết bài thơ “ngọn lửa”,
mà không viết
bài cho báo.
NGỌN LỬA
Em ngủ
Quyển sách gối đầu nâng giấc em ngoan
Anh nhìn em ngủ
Đôi tay trần trắng trong
Tối nay em ngủ sớm
Anh bảo cả nhà đi đứng nhẹ nhàng
Thương em theo trường sơ tán
Thứ bảy chiều qua em mới đạp xe về
Nhưng em tôi không thể nào dậy nữa
7
·
Ôi em tôi
Mới đây thôi
Với đôi tay trần trắng trong màu sữa
Giờ biến thành màu than
Mái tóc em mảng cỏ sém vàng!
Em ngủ?
-Không!
Em đã là ngọn lửa!
Tôi chép bài “Ngọn lửa” gửi báo Quân đội Nhân dân. Và được quý báo
in
trọn vẹn (vào cuối năm đó). Đó là bài thơ đầu tiên trong cuộc đời
văn nghiệp của
tôi sau này. Sự kiện này đã ghi trong (“Tổng tập Nhà văn quân đội
– kỷ yếu và tác
phẩm”, do nhà xuất bản Quân đội Nhân dân ấn hành tháng 11 – 2000.
Phần thơ,
tập 2 trang 140).
Tàu 171 lại về Hải Phòng. Tôi lại có dịp “bát phố”. Tôi gặp mấy
anh trong
báo Quân Bạch Đằng. Các anh nhắc khéo: Phân đội chiến đấu, tiếp tế
các đảo vang
lừng thế, sao không thấy gửi bài, hay có thơ đăng trên Quân đội
Nhân dân oách
quá lại lơ anh em báo “lưu hành nội”? Tôi nhỏ nhẹ cười cho qua
chuyện. Sự thực
tâm hồn tôi đã nghiêng qua văn học.
Sang năm 1966, Hải Phòng nhiều nơi bị máy bay Mỹ bắn phá dữ dội.
Nhất
là chúng phong tỏa cửa biển bằng ngư lôi, bom từ trường, bom nổ
chậm. Tàu buôn
nước ngoài chỉ thả neo ngoài khơi xa mà không thể nào vào cửa Nam
Triệu để cập
cảng Hải Phòng. Binh chủng Hải quân có sáng kiến phá thông luồng
lạch, bằng
cách: Cho tàu nhỏ, chạy tốc độ cao kéo theo sợi dây cáp gây kích
nổ. Thế là bom
nổ chậm, bom từ trường, thủy ngư lôi cứ nổ đùng…đùng… đùng… theo
sợi dây
cáp dài cả trăm mét…Sự sống, cái chết chỉ trong gang tấc!
Và tôi viết bài thơ “Các anh đi thắp bình minh”. Bài thơ được đăng
ở tạp chí
Cửa Biển thuộc Hội văn học nghệ thuật Hải Phòng. Hội vhnt Hải
Phòng gọi tắt là
Hội văn nghệ Hải Phòng tổng kết công tác cuối năm, tôi được
mời dự. Chủ tịch
Hội là nhà văn Nguyên Hồng,
nhưng ông vẫn ở Hà Nội. Buổi tổng kết cuối năm
vẫn không có ông. Nhà thơ Nguyễn Viết Lãm và ông Văn Tiến, hai phó
Chủ tịch,
8
·
phụ trách. Điểm qua bài vỡ cộng tác viên gửi tới, bỗng nhiên ông
nhắc đến tôi: một
chiến sĩ hải quân mới xuất hiện một bài mà nội dung đã có tầm tư
tưởng, tứ thơ
mạnh và cách viết cũng rất mới!
Tôi biết nhà thơ Nguyễn Viết Lãm, và dịch giả bằng tiếng Pháp
Nguyễn Viết
Lãm qua sách báo chứ đã gặp ông bao giờ. Ấy mà Cửa Biển mới in cho
tôi một bài
đầu tiên mà ông đọc, ông nhận xét và khen. Lòng tôi cứ nao nao làm
sao! Nhà ông
ở phố Cầu Tre, tôi có ý định tới thăm nhà ông vào một chủ nhật đầu
năm mới, nếu
tàu vẫn neo đậu cảng Hạ Đoạn.
Chiến tranh ngày càng ác liệt. Tàu lại cách bờ. Tôi đâu còn kịp
thăm ai.
Thân tình như thuyền trưởng Thiết, và chiến hạm 171 mà chúng tôi
rất đỗi tự hào
bởi nó cùng mang tên- số hiệu với Trung đoàn (sau này giải phóng
miền Nam
thống nhất đất nước, Trung đoàn 171 chuyển vào Nam thành Lữ 171),
qua năm
1967 đã phải chia tay nhau, mỗi người đi nhận một nhiệm vụ mới
khác…
Tôi nhận nhiệm vụ bảo quản tàu ở hang Ma (Vịnh Hạ Long- Quảng
Ninh).
Về đây buồn quá! Thầy mẹ tôi đã mất, ngôi chùa Bảo Thiên thầy mẹ
tôi xây dựng
khi tôi chưa ra đời và cả ngôi nhà ba gian hai chái đã ra tro bụi.
Gia đình hai chị
gái tôi ở Quảng Bình đang sơ tán vào rừng, hai em tôi đứa vào bộ
đội đặc công,
đứa gái út ra Hà Nội học đại học cũng sơ tán học ở các tỉnh trung
du xa xôi làm sao
gặp được. Tết lại đến. Đêm,
chim lợn kêu éc... éc... trên các hòn đảo mới rời rợi
buồn…Lại nhớ lời thuyền trưởng Nguyễn Hoàng Thiết, quê Vinh Tân,
thành phố
Vinh: “Sao ngày trước em không khai thành phần là bần cố nông để
được đào tạo
sĩ quan”? Có hai người nữa cũng thân tình hỏi tôi như thế. Đó là
ông Trần Đàm,
học ở Trung Quốc, lấy bằng thuyền trưởng ở Trung Quốc, quê làng Lệ
Kỳ cùng xã
với tôi. Người thứ ba là ông Trần Đình Bạo, chính trị viên tiểu
đoàn, quê thuốc lá
Vĩnh Bảo, Hải Phòng. Và tôi đã nói với họ: Làm sao tôi có thể khai
gian lý lịch.
Nếu không có cái “uy” của thầy tôi thì khi cải cách ruộng đất, gia
đình tôi phải quy
phú nông, bởi gia đình tôi nhiều ruộng mà mẹ tôi thuê người giúp
việc ở luôn trong
nhà. Thành phần gia đình tôi là trung nông lớp trên, tôi phải khai
đúng như thế.
Còn tôi, cứ làm lính cũng tốt, có sao đâu…
Cách mạng miền Nam ngày càng phát triển mạnh. Quân ta thắng nhiều
trận
lớn. Có cả một Trung đoàn Việt Nam cộng hòa bỏ súng đầu hàng quân
giải phóng
ở mặt trận đường 9 - Nam
Lào. Nếu không bảo quản tàu cho tốt thì khi giải phóng
miền Nam, ta lấy đâu ra tàu mà vào giải phóng?
Công việc bảo quản tàu còn dài…
9
·
... Tôi về Trung đoàn 171 nhận lệnh mới: bổ sung vào phân đội mới
ba tàu
lên Hà Nội với nhiệm vụ bảo vệ cầu Long Biên lịch sử, chia lửa với
quân dân Thủ
đô chờ quân giặc tới! Và mười hai ngày đêm Điện Biên Phủ trên
không đã diễn
ra… Tàu tôi đậu phía bờ sông Hồng gần Bát Cổ Viện, tàu chỉ huy đậu
gần cầu
Long Biên phía Gia Lâm bắn máy bay bổ nhào, tàu thứ ba đậu phía
trên làng Bắc
Cầu bắn chéo cánh sẻ. Súng,
pháo quân dân Hà Nội cùng nổ ran trời. Tôi lên
boong trước chuyền từng băng đạn cho khẩu đội pháo 37 hai nòng.
Ta nhận định đúng. Chúng thi nhau bổ nhào phóng bom phá cầu Long
Biên.
Từng chiếc, từng chiếc lao xuống phóng bom và mất hút. Chẳng có ai
nói máy bay
bốc cháy, mà nói “cầu Long Biên đã gãy rồi”. Tôi nhìn thân cây
cầu, nó gãy đoạn
gần bờ phía Gia Lâm, gần tàu chỉ huy. Chắc tàu chỉ huy không thể
tránh khỏi
thương vong?
Tàu chỉ huy hy sinh ba pháo thủ. Đêm đó, họ được an tang trong
vườn dâu
của làng Bắc Cầu.
Mấy tháng sau trên báo Thủ đô có in bài thơ của nhà thơ Bằng Việt,
có câu:
“Tháng tám cầu nhô hai nhịp gãy”, thế mà tôi đứng gần,
nhìn rất gần cầu Long
Biên gãy gục lúc khói bom trùm kín mà chẳng viết được câu nào?
Tin vui truyền đi mọi nẻo đường, mọi ngôi nhà: Ta đã buộc Mỹ ngừng
ném
bom trên toàn miền Bắc Việt Nam, trong một hiệp định tại Paris năm
1973.
Phân đội tàu chúng tôi trở lại Hải Phòng. Đơn vị cho tôi nghỉ phép
12 ngày
về thăm gia đình ở Quảng Bình. Ôi sung sướng quá! Về nhà gặp được
hai chị, còn
hai em đang ở xa thì không sao. Nhân cơ hội này tới thăm các anh
chị trong Hội
văn nghệ và Sở Văn hóa Quảng Bình. Trước đó, tôi đã gửi nhiều thơ
về hai địa chỉ
này và được đăng khá nhiều. Giờ tôi tới thăm mang quân phục hải
quân, vai gắn
lon thượng sĩ chắc họ quý tôi lắm? Sáng hôm sau, tôi tới cơ quan
Hội văn nghệ
Quảng Bình, gặp anh Xuân Hoàng – phó Chủ tịch trực Hội, tôi đặt
vấn đề thẳng
với anh là muốn chuyển ngành về Hội. Nhiều người rất tán thành,
nhưng nhà thơ
Xuân Hoàng nói: Riêng mình thì mình đồng ý rồi, nhưng còn tổ chức
cậu ạ. Để tôi
hội ý Ban thường vụ rồi trả lời đồng chí việc tiếp nhận. Nhà thơ
cười ha hả nói
thêm: 10h sáng mai Vĩnh Nguyên trở lại đây có được không? Tôi trả
lời: Dạ được,
rồi nói thêm: Quý hóa quá, trong thời gian này em được đi thăm bà
con, rồi còn trả
phép. Đường còn nhiều hố bom xe phải đi vòng... Nhà thơ Xuân Hoàng
lại cười ha
hả, nói:” Chúng tớ ở trong túi bom còn lạ lùng gì. Thôi em về gặp
bà con. Mai đến
đúng giờ nghe”...
10
·
Tôi cầm tờ tiếp nhận nhân viên mới có chữ ký, đóng dấu đỏ của Ban
thường
vụ Hội Văn học Nghệ thuật Quảng Bình, về đơn vị.
Còn đứng trên bờ, chưa bước chân xuống cầu thang gỗ để lên tàu,
tôi đã bô bô
với các chiến hữu bộ phận buồm dây: Bây giờ tớ là dân sự rồi nhé.
-Giỏi thế làm gì mà
chẳng xong – Ngan, quê Nghệ An nói và cười.
Tôi trình giấy cho thuyền trưởng, tiếp lên trình giấy cho tiểu
đoàn. Rồi lên
Trung đoàn. Tôi đưa giấy tờ cho trung úy phụ trách hậu cần. Trung
úy xem giấy tôi
trình rồi rút trong tập giấy trước bàn một tờ giấy đã in sẵn đưa
cho tôi và nói: Bút
đây, tôi đọc và anh ghi vào các khoảng trống cho đúng, cho nhanh:
Bộ Tư lệnh Hải
quân/ Trung đoàn 171/ số 1780L
Ngày 22 tháng 01 năm 1974
Thủ trưởng Trung đoàn 171
………….
Xét đề nghị của các đồng chí: Thủ trưởng cơ quan quyết định
Điều 1 – Nay chuẩn y cho đồng chí Nguyễn Quang Vinh nhập ngũ tháng
04-
1962. Xuất ngũ: Không. Tái ngũ: Không. Cấp bậc: Thượng sĩ. Chức
vụ: Trưởng
đài vô tuyến điện.
Đơn vị: Trung đoàn 171 Bộ tư lệnh Hải quân.
Được: chuyển ngành. Về: Tổ chức dân chính. Ủy ban hành chính tỉnh
Quảng
Bình.
Điều 2- Đơn vị chịu trách
nhiệm giải quyết mọi quyền lợi cho đồng chí Vinh từ
4 – 1962 đến hết ngày 22 – 01 – 1974.
Điều 3- Các đồng chí tham mưu trưởng, chủ nhiệm chính trị, chủ
nhiệm hậu
cần, các cơ quan có liên quan và đồng chí Nguyễn Quang Vinh chiếu
quyết định
thi hành.
Thủ trưởng Trung đoàn 171
Thiếu tá Phạm Quang Nho đã ký và đóng dấu.
Cầm tờ quyết định chuyển ngành mừng lắm, tôi đi khoe khắp, mừng
lắm. Tôi
cho anh em hết quần áo quân phục, mừng lắm. Nhưng đâu đã được rời
tàu. Còn
phải bàn giao máy móc, khí tài, vật tư cho đồng chí báo vụ mới.
Chờ lâu chưa có
11
·
người thay thế thì có thể “linh động” nếu, ông thuyền phó nhận
cho. Rồi còn bữa
cơm thân mật chia tay “tàu là nhà, biển là quê hương”. Khi ấy mới
được rời tàu.
Riêng về phần tôi khi rời quân ngũ hải quân, có đôi chút bùi ngùi:
Mất số sách
báo và những ghi chép gửi ở nhà cháu Nga là phần nhỏ. Phần lớn là
không biết họ
đang ở đâu để tôi nói đôi lời lúc chia xa. Rất nhiều lần, tôi vào
nhà máy hỏi Ban tổ
chức tìm hộ địa chỉ nhưng vẫn bằng không…
Thứ hai là, tôi đã đóng một quyển sách bìa cứng và dày như quyển
từ điển. Một
phía tôi ghi nhật ký về những hoạt động trong đời thủy thủ, những
con người,
những con tàu tôi cùng chung sống và có thể cùng chết với họ… Một
phía tôi đã
ghi các bài học, chức năng các đèn điện tử. Nghề vô tuyến điện ra
biển sóng gió,
sấm sét là khó nhọc vô cùng, thì các cực lưới của đèn sẽ lọc sóng
mang cho ta nhận
được tín hiệu rõ ràng hơn. Sau này tâm sự với nhà văn Nguyễn Quang
Lập (Từ
phòng không không quân chuyển về Sở văn hóa Bình Trị Thiên), Lập
cho biết:
Bây giờ có đèn sóng chạy, nó lọc sóng tốt hơn 8 cực lưới bên hải
quân của bác
dùng máy Nga Xô rất nhiều. Biết là để biết vậy về nghiệp vụ của
nhau một chút
cho vui. Tôi bùi ngùi lạnh buốt tận tim gan về phía cuốn nhật ký,
nó là nguồn tư
liệu rất quý rất thiết thực cho việc viết báo và cho cả văn học
sau này của tôi. Tiếc
quá! Mỗi lần nhớ lại nó là tôi muốn khóc!.
Rời tàu, tôi không tìm ra nó. Tôi chẳng biết hỏi ai. Tôi cũng
không báo cáo chỉ
huy tàu. Nhưng, tôi tự nhận: Lỗi tại tôi. Tôi tự động câu đèn
trong máy ra để đọc
sách khuya. Tôi cũng biết tiết kiệm điện của tàu chứ. Khi làm việc
là bật đèn thật
sáng. Còn đọc sách chỉ dùng bóng đèn quả nhót và độ sáng (oát)
thấp nhất, kéo tận
giường nằm đọc, khi đi ngủ thì kéo dây ra. Dù biết tiết kiệm điện
cho tàu, dù sự
thiệt hại chỉ bé xíu thì vẫn là có lỗi. Còn việc nghi là nghi anh
em ngành cơ điện,
công việc của họ là nạp ắc quy hàng ngày. Họ cũng không báo cáo
lãnh đạo về sự
vi phạm của tôi, vì sự tiêu hao chả là bao. Nhưng tôi nghe có
người trong ngành ấy
nói bâng quơ về tôi cũng
chỉ để tôi nghe: Tay “tịt tà tà tịt” làm sụt thế điện chớ
còn ai? Nó viết báo rồi lại viết thơ, sao nó viết được nhiều thế?
Hèn chi, những lần
tôi mua trà, bánh về khao anh em tàu, có một hai anh cơ điện không
lên dự, họ giả
vờ nói là đang bận tay…
Tôi đã biết lỗi... ngậm ngùi... nhưng mãi đến bây giờ mới có dịp
nói ra trên mặt
báo cho thiên hạ cùng hay…
Tôi về Hội văn nghệ Quảng Bình chừng được nửa năm, cơ quan Hội cho
đi học
lớp bồi dưỡng viết văn (Khóa 7) thuộc Hội nhà văn Việt Nam sắp mở
tại Hà Nội.
Mới học được mấy tháng, bất ngờ Huế giải phóng. Học viên Huế có
hai người nói
12
·
xin về thăm Huế vài ngày rồi ra tiếp tục học. Nhưng họ đã bỏ hẵn.
Rồi Sài gòn giải
phóng (30/04/1975), số học viên Sài gòn có 4 người, họ cũng nói
xin nhà trường về
thăm Sài Gòn như thế… nhưng họ đã không trở lại trường... . Khóa
học học viên
có vợi bớt nhưng vẫn học bình thường...
Nhiều ngày chủ nhật, tôi
thường bỏ cơm trường, đi bộ về nhà anh Phùng Quán
chơi. Tôi đã đọc “ Vượt Côn Đảo” của anh. Có bản báo nói rằng:
chuyện là do các
tù Côn Đảo kể, Nhà văn Phùng Quán nghe được ở Thanh Hóa rồi viết.
Còn anh
chưa tới Côn Đảo bao giờ… Chưa tới Côn Đảo mà vẫn viết được rứa là
người tài
rồi? Gặp anh, anh tươi cười. Tay vuốt vuốt chòm râu cằm rồi kéo
tôi lên nhà. “Nhà
anh là cái chòi ngắm sóng cho các thi sĩ đến đây tha hồ ngắm”! Vừa
nói, anh vừa
ôm hủ rượu ra đặt giữa sàn nhà lát gỗ. Thủng thẳng chưa vội rót,
anh giải thích cặn
kẻ về hủ rượu: Ngoài ni có loại mơ Hương Tích thơm lắm quý lắm.
Đến mùa mơ
chín, người ta chọn mơ rồi cho vào hủ ngâm với đường trắng là
thành sirô mơ. Khi
đã chắt hết nước, anh cho rượu trắng 40 độ vào là thành rượu mơ…
Này, thi sĩ
Quảng Bình ra học trường Nguyễn Văn Du hả? Anh ngúc ngúc đầu mủm
mỉm
cười… nói tiếp: Anh chị em Quảng Bình ra học, anh cũng tiếp họ
trên cái chòi này
mà thành danh đó… Anh đưa chén rượu vào tay tôi và đọc “ Rượu như
lửa ta uống
tràn thay nước”, thi sĩ Quảng Bình, uống đi! Cha chả, anh lại
gọi tôi là thi sĩ? Tôi
là đứa hay khóc thì có. Chứ đã viết được cái gì đâu. Anh gọi thế
làm tôi ngượng
quá!
Rồi anh bùi ngùi nói về quê anh ở Huế. Giờ Huế giải phóng rồi
nhưng anh đâu
có “tiêu chuẩn” mà về! Anh đã ra ga Hàng Cỏ, ra các bến xe, nhìn
người nhìn xe
nhộn nhạo vào Nam… và vuốt nước mắt trở về! Nghe hai chữ “tiêu
chuẩn” tôi đã
ứa nước mắt với anh! Anh say sưa kể về vùng quê Thủy Dương của anh
đầy súc
tích… Anh kể về những tháng ngày anh đi trồng sắn trồng khoai gian
nan trên Thái
Nguyên như những người tù giam lỏng như thế nào bởi dính vụ Nhân
văn-Giai
phẩm… Anh càng kể càng cuốn hút tôi. Tôi quý và yêu anh từ đó…
Tôi đi thực tập về nông nghiệp ở huyện Gia Lộc tỉnh Hải Dương đang
lên, sau
“Bài ca 5 tấn” tỉnh Thái Bình. Trở lại trường, tôi viết thu hoạch
và “nộp quyển”.
Tôi trong tốp học viên học giỏi được nhận giấy khen của nhà trường
khi ra trường.
Trở về cơ quan Hội văn nghệ Quảng Bình, đã nghe kế hoạch nhập tỉnh
Bình Trị
Thiên, và đầu năm 1977 chúng tôi là hội viên Hội văn nghệ Bình Trị
Thiên. Hội ra
tập san “ Văn nghệ Bình Trị Thiên” ( Ba tháng một số).Tôi nghe hợp
tác xã Thủy
Dương làm ăn khá, được thủ tướng Phạm Văn Đồng và Tổng bí thư Lê
Duẩn về
thăm. Quê hương anh Phùng Quán đây rồi! Tôi xin đến đó lấy tư
liệu. Đúng là họ
13
·
làm ăn khá thật. Cả làng Thanh Thủy Thượng đang đấu úng: Vùng
ruộng Ô Bàu
Choàng rộng mênh mông mấy chục ha nhất đẳng điền đang ngập nước
sâu nhất,
nếu không bơm, tát khô nước, thì làm sao kịp cắm cây mạ xuống?...
Và, tôi đã viết
bút ký “Trên quê hương anh Phùng Quán”. Chị Trịnh Hoàng Anh ( Chị
con bác
của nhạc sĩ Trịnh Công Sơn) đánh máy bản thảo này. Tôi trình bản
thảo cho Ban
biên tập. Hai anh trong Ban biên tập là HPNT và NKP nhận xét là
bài viết rất khá
nhưng nên bỏ chữ Quán, bởi ai cũng yêu quý anh Quán, nhưng ý cấp
trên chưa cho
tuyên truyền tên anh. Và bản thảo sửa lại đâù đề để được in: “Ghi
chép trên quê
hương anh Phùng”. Tập san ra mắt, tôi xin 2 số. Đáp chuyến tàu
Huế- Hà Nội, đến
nhà anh chạng vạng tối, tôi đứng trước cổng số 3 phố Hàng Cân, tôi
gọi: Anh Quán
ơi, em là Vĩnh Nguyên ở Huế ra thăm anh chị đây. Anh Quán ra mở
cửa đưa tôi
vào nhà. Đặt chai rượu Chuồn tặng anh lên bàn rồi rút hai tập san
Văn nghệ BTT
trong túi xách ra đưa vào tay anh, tôi run run nói: Anh Quán ơi, họ bỏ tên anh mất
rồi, chỉ còn anh Phùng thôi! Anh vỗ tay vào vai tôi an ủi: Đúng
rồi em ơi. Cứ anh
Phùng là tốt rồi. Cứ rứa đã. Em làm căng cũng không được. Và người
ta cũng
không in cho. Rồi dần dần người ta sẽ hiểu…Chị Bội Trâm nói (qua
bên xóm chút)
đã đưa về một dĩa kiệu muối trộn với thịt heo ba chỉ tú ụ. Và đêm
ấy, tôi thức trắng
nghe chuyện anh kể và nghe anh đọc thơ…
Đến tháng sáu năm 1983
thành lập tạp chí Sông Hương, tôi được Hội nhà báo
Việt Nam cấp thẻ nhà báo để đi viết báo.
Biết Quảng Bình có hai
thuyền chuyên đánh cá mập, lấy vây và sụn cá này
xuất khẩu, tôi ra đó đi theo thuyền của thuyền phó Lược ra khơi xa
và tận mắt nhìn
cách đánh loài cá này. Về Huế viết bài bút ký “Theo thuyền đánh cá
mập”, tôi gửi
bài cho Tuần báo văn nghệ và Đài tiếng nói Việt Nam. Hạnh phúc đã
đến với tôi:
Hai cơ quan báo và đài trên đang đồng tổ chức cuộc thi bút ký, và
bài của tôi đã
trúng giải thưởng cao. Bút ký này cũng in tạp chí Sông Hương số 4.
Hết xuống biển, tôi lại lên rừng. Miền Trung đang cao trào tìm
trầm hương. Tôi
ra Lệ Thủy (lúc này nhập huyện thành Lệ Ninh), tôi theo một bận
trầm lên tít Ngân
Thủy- Ngân Sơn giáp biên giới rừng Lào. Tôi chính kiến bận trầm hạ
một cây trầm
gió hai vòng tay người ôm. Tôi đau đớn biết chừng nào khi cây trầm
đổ xuống đã
đè bẹp hàng trăm cây nhỏ hơn làm trống trải cả một khoảng trời…
Rồi cả bận trầm
giáng rìu vào các chảng ba từ thân cây, và các chảng ba của các
cành, nhánh. Họ
lại chém ngã những cây nhỏ chung quanh bởi vướng víu tay rìu của
họ… Kết quả,
họ cũng xoi được vài vốc tay trầm loại ba màu vàng úa, chứ đâu có
loại một nụi
màu đen tuyền… Nhưng khốn nạn thay, muốn lên được chức “Vua trầm”
đâu phải
qua tận rừng Lào để tìm trầm, ông vua ấy phải biết cảnh giác và
đánh trả các đối
14
·
thủ khác để bảo toàn lực lượng và bận trầm là tài sản quý giá,
phải vượt qua bao
khó khăn vất vã đã giáng rìu vào thân cây, cuốc thuổng đào bật gốc
rễ, méo mặt
khi người và vàng đen cùng ngã nhào xuống hố… Ông Vua trầm mà tôi
viết trong
bài là ông Vua trầm mặt xanh nanh vàng thua cuộc trong một trận
đánh với một
bận trầm mạnh hơn. Quân của ông đã vứt hết cả tạ kỳ nam đen như
mực tàu cho
chúng để cướp lấy ông Vua của mình, băng rừng tháo chạy cả ngày
đêm, khi vượt
khỏi rừng già thì dừng lại ,đánh dấu địa hình rồi đào huyệt an
táng ông Vua Trầm
của họ.
Bút ký “Vua trầm” được đăng Tuần báo Văn nghệ, được đọc trên Đài
tiếng nói
Việt Nam. Và, tập bút ký VUA TRẦM của tôi đoạt giải ba “Văn học Cố
Đô” lần
thứ nhất ( 5 năm một lần xét giải).
... Năm 2014 có cuộc thi phóng sự, bút ký về giao thông vận tải do
Tuần báo
văn nghệ và Bộ giao thông vận tải đồng tổ chức. Bút ký “Bến phà
Trúc Ly” của tôi
đoạt giải khuyến khích.
Các cuộc thi báo chí hàng năm của Hội nhà báo tỉnh Thừa Thiên-
Huế, tôi đoạt
được ba lần giải:
Lần 1, Bút ký “Nhịp
sóng xanh” đoạt giải nhất.
Lần 2, Bút ký “Trên
quê hương anh hùng Hồ Vai” đoạt giải khuyến khích.
Lần 3, Bút ký “Một dấu
chấm trên phá Tam Giang” đoạt giải khuyến khích.
Năm 2004 tôi về nghỉ chế độ hưu. Tôi vào sinh hoạt ở câu lạc bộ
(CLB) nhà
báo hưu trí tỉnh Thừa Thiên- Huế.
Năm 2007, Đại hội CLB nhiệm kỳ ( 2,5 năm), tôi được Đại hội bầu
Phó trưởng
Ban chủ nhiệm.
Đến Đại hội tiếp theo, tôi
được Đại hội bầu Chủ nhiệm CLB cho đến ngày
30/01/2013 thì Đại hội mới. Đứng giữa Đại hội, tôi xin nghỉ. Và
Chủ nhiệm mới
trúng cử là nhà báo Nguyễn Bỉnh Khiêm. Tôi đã bàn giao đầy đủ tài
liệu cho Chủ
nhiệm mới. Phần kinh tế, tôi bàn giao cho Phó chủ nhiệm Nguyễn Lê
Huy.
Trong các nhiệm kỳ tôi làm phó Chủ nhiệm đến Chủ nhiệm CLB anh chị
em
vui vẻ, sinh hoạt đều đặn, tổ chức các cuộc vui chơi, đi du ngoạn
tới khu thương
mại Lao Bảo- Quảng Trị (6 lần) đi tắm biển (8 lần), tham quan du
lịch Đà Nẵng (1
lần). Đi thăm Đại tướng Võ Nguyên Giáp, tiếp đi thăm Mũi Ngọc và
cửa khẩu
Móng Cái (1 lần). Anh chị em đi và về sức khỏe tốt và an toàn
tuyệt đối. Tôi viết
15
·
bài về chuyến đi dài ngày ấy, đăng lên báo Thừa Thiên- Huế. Anh
chị em CLB
phấn khởi, Chủ nhiệm thêm chút uy tín.
Đặc biệt, dự án kinh tế Tây Bắc Quán Hàu thuộc tỉnh Quảng Bình.
Tôi phát
hiện dự án này phi khoa học. Họ muốn ủi mồ mả mà nhân dân làng
Vĩnh Tuy đã
quy hoạch đến 3 lần từ sau ngày hòa bình lập lại (1954) nên khu
nghĩa địa này đã
đi vào nề nếp, khang trang. Nay họ muốn san ủi đưa mồ mả ông cha
của dân làng
vào lòi nước rịn quá gần xóm dân có thể gây ô nhiễm môi trường rất
nặng. Bị năm
dòng họ của làng viết đơn lên xã, huyện phản đối.
Một ví dụ cụ thể: Họ cho đắp một con đường lớn, rộng xuyên qua đầu
ghi phía
Nam của ga Lệ Kỳ để nối với đường Hồ Chí Minh đông. Khi con đường
đắp tới
gần ga thì, cán bộ, công nhân
ga Lệ Kỳ không cho làm. Ga Lệ Kỳ thành ga
“chuyển tải” sẽ mở rộng khi ga chính thành phố Đồng Hới mở rộng.
Thế thì, tại
sao dự án không thông qua Tổng cục đường sắt Việt Nam? Dự án không
thông qua
dân làng, có bản vẽ nhưng dấu không cho dân biết...để cứ làm lấy
được… vân vân
và vân vân...
Và tôi đã viết bài “Một dự án kinh tế ăn mồ mả”, Tuần báo Văn nghệ
trẻ in ba
kỳ liền. Mỗi kỳ báo ra, tôi phô tô đến trăm bản. Từ Huế, tôi mang
ra quê, tôi phát
cho bà con từ xóm dưới đến làng trên. Phát cho cả các làng lân cận
nữa; được dân
làng Vĩnh Tuy hoan nghênh và dự án đã bị bãi bỏ. Những người trực
tiếp làm dự
án đã bỏ của chạy lấy người. Bởi họ đã chiếm đất của dân để làm
đường, họ đang
nợ tiền dân nhưng họ không trả, và đã để lại hậu quả tệ hại là
hàng trăm ha đất đồi,
đất màu của dân nhưng dân phải chịu bó tay bởi những trục đường
đắp quá cao,
một trận mưa là ngập không còn lối thoát như ngày xưa...
Bây giờ, lần nào tôi từ Huế về làng, gặp ai đều nhận được những nụ
cười thâm
tình và tay bắt mặt mừng. Họ chào tôi không bằng tên cúng cơm mà
bằng tên danh
dự và nghiệp vụ của những người làm báo: chào Nhà báo!
CLB Nhà báo hưu trí tỉnh Thừa Thiên –Huế lúc tôi làm Chủ nhiệm
được nhà
báo Thanh Thuận viết bài “Càng già bút càng sắc” in lên
báo Thừa Thiên Huế còn
nhấn mạnh, ngợi khen từng bút danh cụ thể các cây bút cự phách
trong CLB Nhà
báo hưu trí của chúng tôi!
Huế 24/05/2019
Vĩnh Nguyên
16
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét