Thứ Năm, 6 tháng 6, 2019


VƯƠNG TRỌNG DỊCH HỎNG CHINH PHỤ NGÂM GÂY TÁC HẠI LÂU DÀI CHO DÂN CHÚNG VÀ HỌC SINH, SINH VIÊN
Đỗ Hoàng
  Vương Trọng dịch Chinh phụ ngâm ra thơ lục bát in trên báo mạng (1) cách đây mấy năm, rồi tiếp những bài phê bình của ông về bản dịch Chinh phụ ngâm của Đoàn Thị Điểm (hay Phan Huy Ích).
   Tôi đọc bản dịch nghĩa, dịch thơ (lục bát) Chinh phụ ngâm của ông (ông nói có tham khảo bản dịch nghĩa của cụ Vũ Huy Động), nên tôi phải lên tiếng phê bình về chất lượng bản dịch của Vương Trọng để cho bạn đọc biết!.
  Trước hết, Vương Trọng và cả cụ Vũ Huy Động đa phần đã dịch bỏ chữ, bỏ ý hoặc thêm chữ, thêm ý chủ quan của mình, nhiều chỗ sai nghĩa một cách trầm trọng bản Chinh phụ ngâm khúc của Đặng Trần Côn. Rất nhiều chữ dịch sai, cụm từ dịch sai, cả câu dịch sai. Dịch nghĩa không ra dịch nghĩa, dịch thơ không ra dịch thơ! Đây là điều rất tối kỵ trong dịch thuật. Về dịch thơ có thể bỏ ý nhỏ, nhưng ý chính luôn luôn phải giữ, không thể “tác dịch” như một vài dịch giả hiện nay. Điều này, người đọc không còn hiểu đúng nguyên bản, càng phản tác dụng khi người dịch thơ rất kém.
Nguyên văn:

Cổ bề thanh động Trường Thành nguyệt
Phong hỏa ảnh chiếu Cam Tuyền vân
Nghĩa là:
Tiếng trống trận nơi Trường Thành đánh dồn dập làm náo động cả vầng trăng
Ngọn lửa báo hiệu có giặc ở chốn Cam Tuyền cháy bỏng đến tận tầng mây.
Hai câu thơ hay quá không cần trình độ Hán ngữ, người Việt ai cũng cảm được và hiểu được!
Vương Trọng dịch thơ:
Trăng rung nhịp trống Trường Thành
Cam Tuyền lửa hắt rạng hình ngàn mây.
Câu một dịch sai nghĩa hoàn toàn. Sao là trăng rung nhịp trống?  鼙 聲 動 - Cổ bề thanh động là tiếng trống trận đánh dồn dập liên hồi kỳ trận đến mức làm náo động cả vầng trăng. Trống trận chứ không phải tiếng trống thường! Thế mới là không khí chiến tranh tang thương!
Về thơ, hai câu dịch này quá dở, thô thiển, vần lại không chuẩn, ép vần.  Về nghĩa ý, tư tưởng câu đầu hỏng.
Tiếp:

Cửu trùng án kiếm khởi đương tịch
Bán dạ phi hịch truyền tướng quân

Nghĩa là: Đương khi ấy nghe tin, nhà vua nổi giận rời chiếu ngồi, vỗ gươm đứng dậy
  Tức thì, nửa đêm truyền hịch chuyển nhanh như bay đến các tướng quân
Ở đây xin nói thêm chữ : Trùng (重).
Chữ “Trùng” âm Hán - Việt còn đọc là “Trọng”.
Đọc “Trùng: thì có 2 nghĩa: 1- Trùng, Lặp lại (cửu trùng – nơi vua ở, vua, trùng cửu, phúc bất trùng lai, trùng trùng điệp điệp, trùng tang, trùng phùng, trùng dương… 2 - Lần (Chín lần “cửu trùng”, tám lần “bát trùng”, hai lần “nhị trùng”…)
Đọc “Trọng” thì có nhiều nghĩa: 1 - quý trọng, trọng thị, kính trọng, quan trọng…2 – nặng nhẹ: nhất bên trọng, nhất bên khinh, trọng án… 3 – bệnh tật: trọng bệnh..4 - chuộng : trọng nông, ức thương…5 - công bằng: trọng tài…
  Nếu chữ  重 - Trùng hiểu theo nghĩa là   - lần – chữ Nôm” thì đúng là “chín lần gươm báu trao tay” như có bản chép Đoàn Thị Điểm dịch thơ Nôm theo nghĩa này. Nhiều bản dịch đề “chín tầng” nhưng không chép chữ Nôm là “tầng vẫn chép chữ Nôm “lần - ” như:
 𠃩 吝” 鎌宝𢶢𢬣
Chín tầng gươm báu trao tay,
(Website: Wikisource, tiếng Việt - https://vi.wikisource.org và Từ điển Wikipedia  tiếng Việt)
Còn chữ :- Tịch: hiếc chiếu, ngồi.
Ngoài nghĩa “chiếu:,  “ngồi” còn chỉ chức vụ người đang giữ như: (Chủ tịch – Người đứng đầu trong một tổ chức đơn vị) , (Hình tịch – Người coi về hình danh). Nên nghĩa “lần” thì:


𠃩吝鎌宝𢶢𢬣  . (chữ Nôm)
傳檄定𣈗出征 
(Chín lần gươm báu trao tay
 Nửa đêm truyền hịch định ngày xuất chinh)
Là dịch thơ hay mà có bám sát nghĩa.
Bởi vì “ 重 – cửu trùng – chữ Hán” và “𠃩   - chín lần – chữ Nôm” vốn là số từ thuần túy!

Vương Trọng dịch nghĩa:
Nhà vua bỏ tiệc, chống kiếm đứng lên
Dịch thế là dịch nghĩa sai. Trong nguyên bản chả có từ nào chỉ yến tiệc. Dịch nghĩa thêm  từ mới, bỏ từ trong nguyên bản ( - đương tịch,  軍 – tướng quân)   là dịch không tôn trọng văn bản và tác giả!
Nên dẫn đến dịch thơ :rất xoàng. Chữ  “ngay” thêm vào cho hiệp vần là rất kém, không thơ chút nào:
“Vua chống kiếm đứng lên ngay
Nửa đêm khẩn cấp hịch bay lệnh truyền”
 Câu thơ dịch như vè vẻ vè ve, nghe vè lá lốt (!)!

Tiếp:
Thanh bình tam bách niên thiên hạ
Tùng thử nhung y thuộc vũ thần

Nghĩa là:
Ba trăm năm thiên hạ được thái bình
Nhưng từ nay võ quan lại phải mặc áo lính ra trận
Vương Trọng dịch thơ:
 “Áo nhung quan võ khoác lên
Hết ba thế kỷ ấm êm thanh bình”.
 Câu thơ dịch vừa sơ sài, vừa dở, vừa kém, Vương Trọng dịch rất tùy tiện, đảo ý câu trên xuống câu dưới, ý câu dưới lên câu trên! Không có một  tí gì sáng tạo từ mới. Bê nguyên xi từ cũ của Đoàn Thị Điểm “ 襖 戎 (chữ Nôm) - áo nhung -” vào câu thơ dịch. Mà từ này cũng không Việt hóa lắm.  Nó vừa Nôm vừa Hán.
戎 - Nhung : đồ binh (cung, nỏ, gióa, mác, kích – ngũ nhung).
“Đẩy xe vâng chỉ đặc sai
Tiện nghi bát tiễu, việc ngoài đổng nhung”.
“Đổng nhung” là trông coi, đốc suất việc quân
(Đoạn trường tân thanh – Nguyễn Du))
衣 :
Nhung y là trang phục của binh lính nói chung. Dùng từ “áo nhung” thời bà Điểm còn được chỉ áo giáp, quân phục người ra trận,, thời này nói áo nhung thi phải nói quần nhung, tất nhung, váy nhung, mũ nhung, xi líp nhung, xu chiêng nhung, coóc - sê nhung, vớ nhung (cho bộ đội nữ)… thì nó ra làm sao? Bê những cái thời trước không hợp thời nay, mà không chịu sửa chữa. Câu thơ dịch thời nay chẳng Việt hóa  tí nào, vẫn giữ nguyên âm Hán Việt chưa được Việt hóa bao nhiêu của những ba thế kỷ!:
Dịch thơ thế này là rất dở:
Thiên địa phong trần
Hồng nhan đa truân
“Đất trời gió bụi nổi lên
Hồng nhan gánh chịu truân chuyên não nùng”
(Vương Trọng)

‘Thiên địa phong trần – Đất trời gió buị” là quá đủ ý, quá hay rồi. “Đất trời gió bụi nổi lên” là vẽ rắn thêm chân. Phải như Đoàn Thị Điểm là vào cái “Thuở” câu thơ dịch mới có thần:

𨤧𡗶坦常欺𡏧 (chữ Nôm)
𦟐𡗉餒迍邅
Thuở trời đất nổi cơn gió bụi,
Khách má hồng nhiều nỗi truân chuyên”

“Hồng nhan”, “truân chuyên” là những từ Hán. Đoàn Thị Điểm còn Việt hóa – “Khách má hồng” còn Vương Trọng thì vẫn y sỳ giữ âm Hán “Hồng nhan gánh chịu truân chuyên não nùng”. Câu thơ dịch quá nặng nề Hán tự, không một tí sáng trong tiếng Việt. Chữ nghĩa của Vương Trọng hình như quá ít hay sao? Thiếu gì chữ Việt:
“Đất trời gió bụi đảo điên
Má hường trắc trở, tơ duyên nổi chìm!.”
Đỗ Hoàng ví dụ thế!
Tiếp:

Trượng phu thiên lý chí mã cách
Thái Sơn nhất trịch khinh hồng mao

Nghĩa là:
Người anh hùng với chí “mã cách” chiến đấu ngoài nghìn dặm dẫu có chết lấy da ngựa bọc thây đem chôn
Và tính mệnh nặng như Thái Sơn, cái chết nặng như Thái Sơn nhưng khi hất xuống coi nhẹ tựa lông chim hồng!
Vương Trọng dịch nghĩa:
Ngàm dặm chí trai da ngựa bọc
Tay nhấc Thái Sơn nhẹ như lông hồng.
Dịch nghĩa mà như dịch thơ. Chí trai là chí “mã cách” . Mã cách là lấy da ngựa bọc thây chôn tử sỹ.  “Mã cách” là điển tích từ câu nói của Mã Viện đời trước, làm trai chiến đấu ngoài chiến trường nếu chết bọc da ngựa đem chôn, chứ không ru rú chết già xó giường. Không nên dịch Nôm “chí trai da ngựa bọc”. “ 革 - Mã cách” nguyên là danh từ chuyển sang nghĩa tính từ hoặc trạng từ bổ nghĩa tùy theo văn cảnh sử dụng.
 Vượng Trọng hiểu sai nên dịch ra thơ thì phá hủy thơ Đoàn Thị Điểm hoàn toàn:
“Lấy da ngựa bọc chí trai
Thái Sơn tay nhấc nhẹ thay lông hồng”
“Lấy da ngựa bọc chí trai”, nó vừa sai nghĩa, vừa nghe bẩn thỉu, thô lậu, mất vệ sinh thế nào, như cái thời hiện đại:
“ Lấy ca pốt bọc cặc trai!
Tha hồ đụ chắc (*) có ai phê bình”.  (*) (Đéo nhau)
Còn dịch “Thái Sơn tay nhấc nhẹ như lông hồng!” không ăn nhập gì với câu thơ của Đặng Trần Côn. Dịch nghĩa sai, dịch thơ hỏng. “Trịch” - là đặt, gieo, ném, quăng, hất, để, giằn… Sao lại dịch là “tay nhấc”?... Xin xem thêm (**)

  Vương Trọng dịch nghĩa, dịch thơ sai quá nhiều như thế, mà dịch thơ rất yếu, câu thơ lục bát lỗi vần, ép vần nhan nhản, hồn thơ nhạt nhẽo, sơ sai như nói vo, thử hỏi còn gì Chinh Phụ ngâm!
    Dẫn chứng thêm: - Vương Trọng không hiểu thấu Chinh phụ ngâm, nên dịch sai nghĩa, từ đó dịch thơ hỏng. Chất lượng bản dịch nghĩa, dịch thơ rất kém cả về ý lẫn lời:
Thiếp tâm tuỳ quân tự minh nguyệt
Quân tâm vạn lý Thiên Sơn tiễn
Trịch ly bôi hề vũ Long Tuyền
Hoành chinh sáo hề chỉ hổ huyệt
Vân tuỳ Giới Tử liệp Lâu Lan
Tiếu hướng Man Khê đàm Mã Viện
穿
Quân xuyên trang phục hồng như hà
Quân kỵ kiêu mã bạch như tuyết
Vương Trọng dịch thơ:
“Bước đi níu áo chẳng rời
Theo chàng lòng thiếp sáng ngời vầng trăng
Lòng chàng chiến trận dõi trông
Buông ly rượu tiễn gươm vung múa rền
Chỉ hang hổ giáo vung lên
Trông như Giới Tử bắt liền Lâu Lan
Như Mã Viện ở khe Man
Ngựa chàng tuyết trắng, áo chàng ráng pha”.
Chữ nghĩa rất kém. Hai chữ “vung” trong hai câu lục bát liền nhau là rất kỵ: “gươm vung múa rền”, “giáo vung lên”, “sáng ngời vầng trăng”, “lòng chàng chiến trận dõi trông”, lại còn múa rền, lại còn “Trông như Giới Tử bắt liền Lâu Lan. Như Mã Viện ở khe Man””
Tiếu hướng Man Khê đàm Mã Viện (Phấn chấn hành quân theo lối đến Man Khê giết giặc luận bàn chuyện danh tướng Mã Viện,  )
  Vương Trọng dịch như trên, nghe sến, cải lương như  khẩu hiệu của các gã thôn trưởng hô hào dân đen nộp thuế ruộng, thua vè mấy mụ nhà quê, thua xẩm mấy ông Mán miền núi!. Khí thơ quá tầm thường, nhạt nhẽo:
Đoàn Thị Điểm dịch:
“Lòng thiếp tựa bóng trăng theo dõi
Dạ chàng xa ngoài cõi Thiên San
Múa gươm rượu tiễn chưa tàn
Chỉ ngang ngọn giáo vào ngàn hang beo
Săn Lâu Lan, rằng theo Giới Tử
Tới Man Khê, bàn sự Phục Ba
Áo chàng đỏ tựa ráng pha
Ngựa chàng sắc trắng như là tuyết in”

Bản dịch thơ tiếng Pháp:
Traduit en Français
par
Tuần Lý HUỲNH KHẮC DỤNG

…Mon cœur vous poursuit à l'instar de la lune
Tandis que votre esprit voguait vers le Thiên Sơn.
Lâchant le vin d'adieu et dégaînant de suite,
Vous pointâtes la lance vers l'antre des fauves.
Vous suivriez, dîtes-vous, l'exemple de Giới Tử
Pourchassant les Lâu Lan et, quand il s'agirait
D'écraser les Man Khê, ces hordes d'insoumis,
Vous utiliseriez les ruses de Phục Ba.
Votre cuirasse avait la pourpre des nuages
Et l'on eût dit de neige votre blanc coursier…


Đúng một bên là chim phượng hoàng nghìn sắc, một bên con cú chết trôi xù lông, xù cánh!

Rồi còn tiếp tục:
“Chàng đi nắng dãi mưa dồn
Thiếp thì về lại căn buồng đêm qua”
Nên chọn vần “ồn” cho lục bát đạt chuẩn vần “chính”, chứ vần “uồng” cũng chưa phải vần “thông” nói chi đến vần chinh!
“Chàng đi nắng dãi mưa dồn
Thiếp thì về chỗ công đồn đêm qua”
Từ câu thứ 1 đến câu thứ 417, Vương Trọng dịch thơ  đã nhạt, dở, kém mà lại đều ép vần, lỗi vần, thất vận một cách trầm trọng. Ngày xưa viết chữ Nôm tiền nhân đọc, viết ép vận như : “đoàng - vàng”, “thành – hình”, “truyền – lên”, “ôi – ai”, “phòng – trình”, “trình – thanh”,  , “trường – vàng”, “duyên – xem” còn tha thứ được, như trong Truyện Kiều, cụ Nguyễn Du cũng lỗi vận đến nghìn câu như thế. Nay tiếng Việt hiện đại dùng chữ La tinh ghi âm nên các nhà thơ Việt sáng tác thơ lục bát, song thất lục bát hoặc thơ truyền thống,  Đường luật nên tuân thủ chặt chẽ vần điệu theo chữ La tinh mới thể hiện tài năng sử dụng tiếng Việt của mình.
Câu mở đầu bản dịch thơ lục bát Chinh phụ ngâm, Vương Trọng đã ép vận:
“Đất trời gió bụi nổi lên
Hồng nhn gánh chịu truân chuyên não núng”
Phải:
Đất trời gió bui nổi lên
Mà hường gánh chịu truân chên não nùng”
Câu thứ 4 đến câu thứ 6 :
“Trần gian bao chuyện đau lòng ai sinh?
Trăng rung nhịp trống Trường Thành
Cam Tuyền lửa hắt rạng hình ngàn mây”
Nếu đổi “Trăng rung nhịp trống Trường Thình” thì vần điệu ba câu này chỉnh chu biết mấy!
Câu thứ 23 đến câu 27:
“Lấy da ngựa bọc chí trai
Tay nhấc Thái Sơn nhẹ thay lông hồng
Chiến chinh xa  chốn khuê phòng
Gió ào cầu Vị, roi vung hành trình
Đầu cầu Vị nước thanh thanh…”
Câu 54, 55:
“Cờ đưa quân tiến mấy bề bóng loang
Trông mây thiếp biết xa chàng”…
Câu 77 đên câu 80:
Bạch thành Hán chiếm sớm nay
Còn vùng Thanh Hải sáng mai Hồ rình
Thấp cao Thanh Hải núi xanh
Suối trong trước núi hiện hình sau cây”…
Câu 99, 80:
“Trăn soi mộ cũ Kỳ Sơn
Bến Phì mộ gió mới than canh trường”…
Câu 103, 104:
“Chinh phụ khi đã lìa đời
Cậy ai tô mặt, cây ai gọi hồn”…
Câu 111, 112:
“Gió thu bãi cỏ từng quen
Tên vèo trước mặt, quan san trăng đầy”…
Câu 139,142:
Nay đào tàn tạ gió đông
Mai gìa nở với phù dung bờ này
Chàng hẹn thiếp đến Lũng Tây
Giữa trưa chẳng thấy bóng ai hút tầm”…
Câu 145, 146:
Chàng hẹn thiếp cầu Hán Dương
Hết ngày nào thấy bóng chàng chàng ơi”…
Quá nhiều lỗi, quá nhiều sai không kể xiêt!...
Câu 395, 399:
Ngang Phiêu Diêu khoản ghi công chiến trường
Ngàn năm bia đá bảng vàng
Vợ con ân hưởng đàng hoàng dài lâu
Thiếp và Tô Phụ khác nhau
Lạc Dương trai giỏi có đâu hơn chàng?”…
Câu 403
Vì chàng dâng chén rượu ngà tận tay
Vì chàng thiếp chải tóc mây
Vì chàng trang điểm mặt mày thêm duyên
Giở khăn lệ cũ chàng xem
Câu 408, 409:
“Thơ sầu chuyển tiếp thơ vui
Thơ ngâm rượu chuốc liên hồi cùng nhau”…
Nên sửa:
“Thơ sầu đổi lại thơ vui
 Rượu ngon mới kể ngậm ngùi trước sau”…
Vừa chỉn chu vần điệu , vừa đúng nghĩa nguyên bản:


Xướng bất xướng hề Tử lưu thiên
Nguyện châm cửu uấn hề xướng song liên
(𢝙 𢬭 貝 拘 愁
𨢇 呵 共 計 𨍦 𠳒) - chữ Nôm
Câu vui đổi với câu sầu.
Rượu khà cùng kể trước sau mọi lời
(Đoàn Thị Điểm dịch)
Bà Điểm dịch thời tiếng Việt chưa phát triển mấy mà vần điệu, ý từ thanh thoát bay bổng, vừa sát nguyên bản , vừa làm nguyên bản hay hơn nhiều; Vương Trọng dịch sau 300 năm, tiếng Việt phát triển đến mức cao chưa từng thầy khi la tinh hóa con chữ, thế mà ý tứ đã kém, sai xa nguyên bản, khi thơ tầm thường, vần điệu lại lỗi, sai trầm trọng. Thật uống công tôi đọc và viết bài phê bình!
    Bản dịch nghĩa, dịch thơ Chinh phụ ngâm  - Đặng Trần Côn của Vương Trọng quá kém lại sai quá nhiều làm hỏng nguyên tác, bôi nhọ tiền nhân như thế này mà Bộ Giáo dục & Đào tạo đưa làm “Tác phẩm văn học trong nhà trường” thì thật nguy hại cho dân chúng và học sinh, sinh viên vô cùng!
     Kẻ phá hoại di tích văn hóa vật thể và phi vật thể đều cấu thành tội phạm. Vương Trọng  dịch hỏng Chinh phụ ngâm, Đỗ Trung Lai (dịch phá hỏng Đường thi) đều phải vào vòng lao lý. Những kẻ phá hoại các di sản văn hóa vật thể và phi vật thể như hai ông là có tội lớn. Hai ông vì cuồng danh, vì ngộ nhận tài năng của mình mà gây ra tai họa lâu dài cho dân chúng và học sinh, sinh viên!
                                                        Hà Nội 2012
                                                               Đ – H
(*) In trên lethieunhon.com
(**) Tham khảo thơ Lý Bạch
李白
 KẾT MIỆT TỬ 
Yên nam tráng sĩ Ngô môn hào,
Trúc trung trí duyên ngư ẩn đao.
Cảm quân ân trọng hứa quân mệnh,
Thái sơn nhất trịch khinh hồng mao.
 DỊCH NGHĨA
Tráng sĩ miền nam nước Yên và hào kiệt đất Ngô
Dấu dao cùn trong đàn trúc, dấu đao trong bụng cá
Cảm ơn vua nên đem tính mạng đền ơn
Gieo núi Thái Sơn nhẹ như lông chim hồng

"Kết miệt tử" là tên một điệu hát cổ, có nghĩa là người đan vớ, ngụ ý là người quyết chí báo ơn.
Trần Trọng San dịch thơ:
Ngô Môn có bậc anh hào, 
Lòng đàn bụng cá giấu dao tung hoành. 
Đền ơn vua, quyết dâng mình, 
Một gieo núi Thái, nhẹ tênh lông hồng.
 

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét