Diện tích nước Việt cổ
lớn gấp 10 lần ngày nay
Trần Hưng
·
•
·
·
·
Vùng đất phía Bắc của
người Bách Việt từng lên đến tận phía Nam sông Dương Tử (hay Trường Giang), tới
khu vực Hồ Động Đình (tức tỉnh Hồ Nam, Hồ Bắc của Trung Quốc ngày nay). Việc
này không chỉ được ghi nhận lại trong các truyền thuyết mà còn nằm trong
những chứng tích của lịch sử.
Truyền thuyết
Theo Lĩnh Nam Chích
Quái (huyền sử) thì ông nội của Lạc Long Quân là Đế Minh (cháu 3 đời của Thần
Nông) sinh ra con cả là Đế Nghi. Khi Đế Minh đi tuần thú phương Nam thì gặp và
cưới con gái bà Vụ Tiên sinh ra Lộc Tục. Ngay từ tấm bé Lộc Tục đã thể hiện rất
thông minh và đoan chính.
Đế Minh rất ngạc nhiên
trước tư chất thông minh và tài trí của Lộc Tục nên muốn chọn làm người nối
ngôi, thế nhưng Lộc Tục lại muốn nhường ngôi cho anh mình là Đế Nghi.
Cuối cùng Đế Minh
quyết định truyền ngôi cho con trưởng Đế Nghi làm vua phương Bắc, và cho Lộc
Tục làm vua phương Nam, lấy sông Dương Tử làm giới tuyến. Ông tế cáo trời đất
trên Thiên đài rằng: “Trước đất trời nguyện rằng: Nam, Bắc cương thổ có
khác. Nam không xâm Bắc. Bắc không chiếm Nam. Kẻ nào phạm lời nguyền thì chết
dưới đao thương”.
Trong khi đó, dù hậu nhân sau này đã mở
mang bờ cõi về phía Nam, nhưng lại mất đi phần đất phía Bắc, nên diện tích
Việt Nam bây giờ là 331.698 km2 (tính
cả diện tích trên biển), chỉ bằng khoảng 1/10 so với trước kia. Dẫu đây chỉ là
huyền sử thì không phải ngẫu nhiên mà các địa danh lại xuất hiện trong huyền sử.
Một số nhà nghiên cứu cho rằng huyền sử này đã diễn tả lại một cuộc di dân của
người Việt cổ về phương Nam, cũng như sự kết hợp và chia tách của hai chủng Việt
cổ lớn thời bấy giờ.
Hai Bà Trưng khôi phục
giang sơn
Cuộc khởi nghĩa Hai Bà
Trưng vào năm 40 SCN đã giành được thắng lợi và lấy lại nguyên vẹn lãnh
thổ nước Việt cổ.
Hai
Bà Trưng cùng các nữ tướng quả cảm của mình đánh đuổi quân Hán đến tận Động Đình Hồ, một nữ tướng là
Trần Thiếu Lan đã tử trận tại sông Thẩm Giang. Đây là con sông nối với Hồ Động
Đình. Sách thời nhà Nguyễn có ghi chép rằng: “Các sứ thần triều Lý,
Trần, Lê đi sứ sang Trung Quốc, khi qua nơi đây đều có sắm lễ vật đến cúng miếu
thờ bà Trần Thiếu Lan.”
Từ đấy phía Bắc sông
Dương Tử do Đế Nghi cai quản, phía Nam sông Dương Tử do Lộc Tục cai quản. Lộc
Tục khi lên ngôi Vua lấy hiệu là Kinh Dương Vương, năm 2879 TCN đặt quốc
hiệu là Xích Quỷ, biên giới phía Bắc tới Động Đình Hồ, phía Nam giáp với nước
Hồ Tôn, phía Tây giáp với Ba Thục, phía Đông giáp với biển Nam Hải.
Như vậy theo sự phân
chia vào thời đấy thì biên giới phía Bắc của người Việt lên đến Động Đình Hồ
(phía Nam sông Dương Tử), bao gồm cà các tỉnh của Trung Quốc ngày nay như Hồ
Bắc, Hồ Nam, Giang Tây, Quảng Tây, Quảng Đông, v.v.
Bản đồ nước Việt cổ. (Ảnh: Wikipedia)
Nếu tính diện tích thì
Bắc giáp Động Đình Hồ vĩ tuyến 29 Bắc, phía Nam giáp nước Hồ Tôn (Chiêm Thành
sau này) vĩ tuyến 11 Nam, phía Tây giáp Ba Thục (tỉnh Tứ Xuyên) kinh tuyến 105
Đông, phía Đông giáp bể Nam Hải, kinh tuyến 118 Đông. Tổng cộng diện tích
của Xích Quỷ khoảng 2.900.000 km2.
Khi vua Kinh Dương
Vương mất, con trai là Lạc Long Quân lên nối ngôi, lập ra nhà nước Văn Lang.
Khi ấy, biên giới của Bách Việt vẫn được vẹn toàn.
Khi giành được giang sơn, Hai Bà Trưng giao cho nữ tướng Phật
Nguyệt chức Tổng trấn khu hồ Động Đình – Trường Sa. Năm 1979, giáo sư Trần Đại
Sỹ tìm thấy tại thư viện bảo tồn di tích cổ ở tỉnh Hồ Nam (tỉnh thủ phủ phía
Nam Động Đình Hồ, Trung Quốc) có ghi chép trận đánh Động Đình Hồ như sau: “Quang Vũ nhà Hán sai Phục ba tướng
quân Tân tức hầu Mã Viện. Long nhượng tướng quân Thận hầu Lưu Long đem quân dẹp
giặc. Vua Bà sai nữ tướng Phật Nguyệt tổng trấn hồ Ðộng đình. Mã Viện, Lưu Long
bị bại. Vua Quang Vũ truyền Nhị thập bát tú nghênh chiến, cũng bị bại. Nữ vương
Phật Nguyệt phép tắc vô cùng, một tay nhổ núi Nga mi, một tay nhổ núi Thái sơn,
đánh quân Hán chết, xác lấp sông Trường giang, hồ Ðộng đình, oán khí bốc lên tới
trời”.
Giáo sư Trần Đại Sỹ từng
tới Trung Quốc để tìm hiểu về lịch sử cuộc chiến giữa Hai Bà Trưng và quân
Hán, thấy rất nhiều tỉnh đều thờ Vua Bà, nhiều nhất là tỉnh Hồ Nam (khu vực
Động Đình Hồ), nhưng không ai còn nhớ Vua Bà là ai.
Khi ông đến đến Côn
Minh, giáo sư sử học Đoàn Văn ở đây cho hay: “Trong truyền thuyết dân gian nói rằng hồi đầu thế kỷ thứ
nhất có trận đánh giữa quân vua Bà với quân Hán tại Bồ lăng. Nay Bồ lăng nằm
trên lãnh thổ Tứ Xuyên, chỗ ngã ba sông Trường giang và Ô giang.”
Giáo sư Trần Đại Sỹ đến
bến Bồ Lăng thuộc huyện Bồ Lăng, tỉnh Tứ Xuyên, Trung Quốc để tìm hiểu. Tại đây
giáo sư được Sở du lịch hướng dẫn đến miếu thờ 3 vị thần, tướng của Vua Bà.
Nhưng bản thân họ cũng không biết Vua Bà và 3 vị tướng này cụ thể là ai, chỉ
cho biết vua Bà là người nổi lên chống tham quan thời Hán, cả vùng đó đều có
đạo thờ Vua Bà.
Miếu thờ có rất nhiều
câu đối, nhưng cuộc cách mạng văn hóa của Trung Quốc đã hủy gần hết các câu đối
này. May mắn là ba câu đối vẫn còn tồn tại tới ngày nay.
Phía trước cửa miếu có
câu đối rằng:
Khẳng khái, phù Trưng,
thời bất lợi,
Ðoạn trường, trục Ðịnh, tiết… can vân.
Ðoạn trường, trục Ðịnh, tiết… can vân.
Nghĩa là:
Khẳng khái phù vua
Trưng, ngặt thời của Ngài không lâu.
Ðuổi được Tô Ðịnh, nhưng đau lòng thay, phải tự tận…
khí tiết ngút từng mây.
Ðuổi được Tô Ðịnh, nhưng đau lòng thay, phải tự tận…
khí tiết ngút từng mây.
Phía trong miếu có câu
đối:
Giang thượng tam anh phù
nữ chúa,
Bồ Lăng bách tộc khốc thần trung.
Bồ Lăng bách tộc khốc thần trung.
Nghĩa là:
Trên sông Trường giang,
ba vị anh hùng phò tá nữ chúa,
Tại bến Bồ lăng, trăm họ khóc cho các vị thần trung thành.
Tại bến Bồ lăng, trăm họ khóc cho các vị thần trung thành.
Những tư liệu này cho
thấy biên giới người Việt thời Hai Bà Trưng phía bắc tới Động Đình Hồ (phía Nam
sông Dương Tử), phía Tây tới tận Ba Thục (tức tỉnh Tứ Xuyên ngày nay).
Bản đồ nước Lĩnh Nam thời Hai Bà Trưng, phía Bắc đến Động
Đình Hồ, phía Tây đến Bồ Lăng (Ba Thục). (Ảnh: Wikipedia)
Trải qua ngàn năm Bắc
thuộc, người Việt dồn dần xuống phía Nam để tránh sự cai trị hà khắc,
khiến khu vực phía Bắc người Hoa Hạ ngày càng đông hơn.
Năm 938, Ngô Quyền
lãnh đạo người Bách Việt đánh bại quân Nam Hán, làm chủ lại các vùng đất của
nước Việt. Tuy nhiên một dải đất lớn phía Bắc là Nam Hải, Tượng Quận, Quế
Lâm đã bị bỏ qua, và diện tích nước Việt nhỏ hơn trước. Sau này dù bờ cõi đã
được mở rộng về phía Nam, nhưng diện tích ngày nay chỉ bằng hơn 1/10 so với
trước đây.
Truyền thuyết không
cách xa sự thực
Trong bài viết có tựa
đề “Thử tìm lại biên giới cổ của Việt Nam” trên diễn
đàn Lý Học Đông Phương, vốn là bài diễn văn tiếng Pháp của giáo sư
Trần Đại Sỹ đọc trong dịp khai giảng niên khóa 1991-1992 tại Viện Pháp –
Á, được dịch giả Tăng Hồng Minh đăng tải, giáo sư Trần Đại Sỹ đã nhắc tới
nhiều luận điểm khẳng định biên giới Việt cổ nằm ở hồ Động Đình. Những
luận điểm này được đích thân giáo sư Trần Đại Sỹ khảo cứu và viếng thăm thực
địa, trong đó nổi bật là:
1 – Núi Ngũ lĩnh trong
truyền thuyết về Đế Minh xác thực nằm ở Trường Sa, Hồ Nam. Ngoài ra tại tỉnh
này còn có rất nhiều các di tích được nhắc tới của tộc Việt như: hồ Động Đình,
núi Tam Sơn, sông Tương, Thiên đài, Tương đài, cánh đồng Tương.
2 – Thiên đài mà Đế
Minh tế cáo trời là có thật, nằm gần bên bờ Tương Giang. Trên đỉnh này có một
ngôi chùa nhỏ, bên trong còn có nhiều chứng tích về Hai Bà Trưng và trận
Động Đình. Ngoài ra giáo sư Trần Đại Sỹ còn tìm thấy một tài liệu mang
tên “Thiên đài di sự lục” tại thư viện Hồ Nam, trong đó miêu
tả rõ rằng Thiên đài thờ vua Đế Minh và vua Kinh Dương.
3 – Cánh đồng Tương là
nơi mà Lạc Long Quân và Âu Cơ đã hẹn nhau tái hội mỗi năm một lần là có thật.
Giáo sư Trần Đại Sỹ kết luận rằng cánh đồng Tương chính là vùng trũng phía
Tây Ngạn, giới hạn phía Bắc là hồ Động Đình, Nguyên Giang. Phía
Nam là Linh Lăng, Hành Giang. Phía Tây là vùng Chiêu Dương,
Lãnh Thủy. Nhưng nay cánh đồng Tương chỉ còn khu vực tứ giác:
Tương Giang, Nguyên Giang, Liên Thủy, Thạch Khê Thủy.
Cùng với một số luận
điểm vững chắc khác, giáo sư Trần Đại Sỹ đi đến kết luận rằng:
Biên giới cổ của nước
Việt, với các triều đại Hồng Bàng, Âu Lạc, Lĩnh Nam, phía Bắc quả tới
hồ Ðộng Đình, phía Tây giáp Tứ Xuyên.
Vậy là diện tích nước
Việt cổ thực sự lớn gấp 10 lần ngày nay.
Ghi chú: Nước Việt cổ và người Việt cổ là
khác so với nước Việt và người Việt hiện nay. Người Việt hiện nay chỉ là một
nhánh của người Việt cổ.
Trần Hưng
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét