THƠ VÔ LỐI - THI TẶC (詩賊)
Đỗ Hoàng
Số chuyên nghiệp làm thơ Vô lối nổi
cộm độ trên dưới 20 vị. Thanh Tâm Tuyền, Lê Văn Ngăn, Nguyễn Quang Thiều, Nguyễn
Bình Phương, Nguyễn Khoa Điềm, In ra sa ra, Mai Văn Phấn, Hoàng Vũ Thuật, Phan
Hoàng, Trúc Thông, Phạm Đương, Tuyết Nga, Từ Quốc Hoài, Mai Quỳnh Nam, Trần
Hùng, Đỗ Doãn Phương, Văn Cầm Hải, Hoàng
Hưng, Nguyễn Phan Quế Mai, Vi Thùy Linh, Đinh Thị Như Thúy, Phan Thị Vàng Anh, Mã
Giang Lân, Thi Hoàng, Phan Huyền Thư…Số này đang chiếm diễn đàn các báo văn nghệ
mậu dịch quốc doanh, tem phiếu. Nhất là từ khi Nguyễn Quang Thiều (Chủ tịch hội
Nhà văn), Nguyễn Bình Phương (Phó Chủ tịch), Inra sa ra (Chủ tịch Hội đồng thơ),
Trần Hùng (Ủy viên Ban chấp hành) Phan Hoàng (Ủy viên ban chấp hành), Phạm
Đương…giữ vị trí lãnh đạo Hội Nhà văn Việt Nam (khóa X) thì thơ Vô lối bội sinh
như nấm độc mọc lên sau mưa! Có những người trước làm thơ còn đọc được, sau học
đòi và chiều lòng những ông Vô lối để được in báo, được giải thưởng nên cũng viết
loăng quăng, làm bộ làm dáng cho ra vẻ đổi mới.
Những kẻ làm thơ Vô lối không có một tí tẹo nào gọi là cách tân, cách tiếc.
Đặc điểm nổi bật nhất của họ là viết không vần, không điệu, họ cho là cách tân
nhất, hậu hậu hiện đại nhất. Họ không những làm hỏng thơ ca tổ tiên mà còn phá
nát cách cảm, cách nghĩ truyền thống, phá hoại chữ nghĩa thiêng liêng của ông
cha từ ngàn xưa. Nhóm này hình thành nên một tốp Thi tặc (giặcThơ)
rất nguy hiểm! Thơ không vần không có gì mới mẻ. Nhân loại và cha ông ta đã làm
thơ không vần khi tiếng nói, chữ viết còn sơ khai!
Thơ cổ Trung Quốcạn năm hơn vạn năm
trước:
KÍCH DƯỠNGCA
撃壤歌
吾日出而作
日入而息
凿井而飮
耕田而食
帝力于我 何有哉
Phiên âm Hán – Việt
Kích nhưỡng ca
Ngô nhật xuất nhi tác
Nhật nhập nhi tức
Tạc tĩnh nhi ẩm
Canh điền nhi thực
Đế lực ư ngã hà hữu tai?
Đỗ Hoàng dịch nghĩa
BÀI CA LÀM ĐẤT
Mặt trời mọc, ta đi làm
Mặt trời lặn thì nghỉ
Đào giếng mà uống
Làm ruộng mà ăn
Sức vua làm gì ta nào ?
THƠ TỔ TIÊN TA
« Bèo dạt mây trôi » hợn mấy nghìn
năm trước
Bèo dạt mây trôi chốn xa xôi
anh ơi em vẫn đợi bèo dạt
mây trôi, chim sa
tang tính tình cá lội
ngậm một tin trông, hai tin đợi
ba bốn tin chờ sao chẳng thấy anh…”
THƠ CỔ SA DI – Ba Tư (hơn nghìn năm trước)
Ê, kẻ ba hoa bẻm mép kia, ngươi hát về
tình yêu gì vậy?
Bởi ngươi cả đời một câu thơ cho ra hồn
không viết nổi!
Hãy nhìn xem Sadi này theo ý của trời xanh
Không tâng bốc những kẻ chúa đất mà chỉ
hát về tình.
*
Thiên hạ trách tôi: “Trước người yêu tự hạ
mình không xứng đáng
Hay ngươi muốn huỷ diệt mình như một kẻ cuồng
điên?”
Tôi trả lời: “Hỏi cô ấy mà xem, tôi như kẻ
tù binh
Đừng hỏi tôi mà uổng công khi trên cổ tôi
– dây thòng lọng”.
Ở Việt Nam thơ Vô lối xuất hiện giữa thế kỷ
XX và tồn tại đến hôm nay. Thanh Tâm Tuyền được coi là “ông Tổ” Vô lối. Một số văn nghệ sĩ thời Việt Nam Cộng Hòa tôn
vinh. Sau năm 1975, các tờ báo Văn nghệ, tạp chí Thơ (đã xóa sổ), tạp chí Nhà văn & Tác phẩm
thuộc Hội Nhà văn Việt Nam… cũng liên tục giới thiệu Tuyền. Đám choai choai mới
nhập vào làng thơ Vô lối những ngày hội thơ rằm tháng giêng rước ảnh Thanh Tâm
Tuyền trong sân Văn Miếu….
Thanh
Tâm Tuyền sinh ngày 13 tháng 3 năm 1936 tại Vinh, tên thật là Dzư Văn Tâm.
Năm 1962, Thanh Tâm Tuyền nhập ngũ, 1966, giải ngũ, 1969, tái ngũ, ở trong quân
đội đến 1975; cấp bậc cuối cùng là đại úy trong Quân lực Việt Nam Cộng hòa. Sau
1975, bị đi tù cải tạo 7 năm qua nhiều trại giam khắc nghiệt ngoài Việt Bắc.
Thanh Tâm Tuyền ra tù 1982. Sang định cư tại Hoa Kỳ từ tháng 4 năm 1990 theo diện
HO, sống ở tiểu bang Minnesota, Hoa Kỳ.
Cuộc đời Thanh Tâm Tuyền lính tẩy là chủ yếu.
Lính tẩy, ngụy, cộng gì bỏ qua, miễn là thơ có được không. Thơ Tuyền lại như cứt,
như đời tâm lý chiến ngụy của Tuyền.
“tôi buồn
khóc như buồn nôn,,,Phục sinh”
Buồn khóc là trạng thái tâm lý, buồn nôn là
hiện tượng sinh lý. Hai thứ ấy làm sao mà giống nhau được. Một kiểu đương thời
trong Nam coi là cách tân nhưng là kiểu
viết ngu độn, vô học.
“tôi gọi tên
tôi cho đỡ nhớ
thanh tâm
tuyền,
…
tôi gào tên
tôi thảm thiết
thanh tâm
tuyền…”
Anh nhầm giữa
tên và bút hiệu. Tên anh là Dzư Văn Tâm,
bút hiệu Thanh Tâm Tuyền.
“Nhớ” là biểu hiện tâm lý, có sự giao thoa.
Tên anh là một ký hiệu vô cảm làm sao
anh gọi cho đỡ nhỡ.
Lại kiểu viết
ngu độn, vô học.
,tôi xin một
chỗ quỳ thầm kín,
Thầm kín là
một tính từ là nỗi sâu kín ở trong lòng,
không bộc lộ ra ngoài
như nỗi buồn
thầm kín, như mơ ước thầm kín…Ai lại nói chỗ ngồi,,thầm kín,,.
Nhan nhản những
câu viết ngô ngô ngọng ngọng trong,,vô lối,,
Thanh Tâm Tuyền như vậy.
“tôi thèm sống
như thèm chết”.
Thật không còn từ nào để chưởi kiểu viết vô học
, ngu độn của Thanh Tâm Tuyền.
Ai cũng thèm
sống, không có ai thèm chết.trừ những khoảnh khắc bi phẩn trong cuộc đời. Người
ta muốn chết chứ không phải thèm chết.
Bọn vô lối học
Thanh Tâm Tuyền sẽ viết tràn lan:
“tôi thèm vuốt
cặc như thèm cắt cặc”
“tôi thèm đụ
như thèm thiến dái”…
Kiểu viết của Thanh Tâm Tuyền bọn vô lối hậu
sinh học tập cóp sái cổ
« Kiếp sau tôi làm con chó
Để để cất giữ nỗi buồn
Báu vật của quê hương»
« Bài hát về cố hương » - Nguyễn Quang Thiều,
Lịch sử muôn loài vạn vật đi lên, chói lọi
là làm con người, muốn quay lại làm kiếp chó. Dễ thôi. Đấy là bầy điên . Bầy vô
lối bệnh hoạn.
Thanh Tâm Tuyền viết vô lối như cứt chó mà cũng tự cao, tự đại, coi trời
bằng chai
“Ở đây tôi là vị hoàng đế”
Ở đây tôi là vị hoàng đế đầy đủ quyền uy
bởi vì người vào trong đất đai của tôi
người hoàn toàn tự do
để cai trị tôi có những luật lệ tinh thần
mà người phải thần phục
nếu người muốn nhập lãnh thổ
người hoàn toàn tự do
và có thể ném cuốn sách ra cửa sổ,,
Đám vô lối hậu sinh dẩm phải nước đái của Tuyền cũng khệnh khạng cao ngạo
ngu độn
« Ta im lặng
Chim hót
Họ thì vỗ cánh
Ta viết
Chim bay đi
Họ thì vỗ cánh
Ta nhìn ta mai mái một làn sương »
« Nhà thơ » của Nguyễn Bình
Phương.
Đúng là bọn vô lối im lặng thì chim chóc mới
hót được. Bọn vô lối mà viết thì chim chóc phải trốn biệt
贈裴公
看書山鳥棲窗扦,
批札春花照硯池。
捷報頻來勞驛馬,
思公即景贈新詩。
Tặng Bùi Công
Khán thư sơn điểu thê song hãn,
Phê trát xuân hoa chiếu nghiễn trì.
Tiệp báo tần lai lao dịch mã,
Tư công tức cảnh tặng tân thi
Hồ Chí Minh - 胡志明
Dịch thơ
Xem sách chim rừng vào cửa đậu
Phê văn hoa núi ghé nghiên soi
Tin vui thắng trận dồn chân ngựa
Nhớ cụ thơ xuân tặng một bài.
(Khuyết danh)
Người
đại trí, đại đức…hòa chung với thiên nhiên, chung vui với muôn vật, chung lòng
với cộng đồng. Bọn chó vô lối không thể sống hòa hợp trong cộng đồng.
Thanh Tâm Tuyền cố tạo ra lối viết lạ tai
nhưng vô nghĩa
« Những chữ nghĩa còn hoang
Câu thề thốt lạ thường
Nơi không gian còn tiết trinh,,
…
Ngón tay âm thầm trò chuyện
Những bước chân thỏ rừng
Chạy trên cỏ sắc
Sợi tóc đen như một chuỗi cười,,
Viết vô lối rất ngu độn -
,,Em bao giờ là thiên nhiên
anh cúi đầu xuống ngực
dòng mưa sắc lá
đau môi,,
Em, con người là một phần của thiên nhiên, tự
nhiên, sao lại hỏi một câu vô bổ ngớ ngẩn như vậy.
Thanh Tâm Tuyền rất dốt tiếng Việt
,,Sự em có mặt cần thiết như những sớm
mai,,
Câu vừa dài dòng, lê thê đầy chữ Hán.
亊 sự là chữ Hán Việt hóa được nhiều, thường dùng trong hành chính, quân sự
, chính trị…亊 sự 1. việc, 2. làm việc, 3. thờ.
Sự em đến…là việc em đến. Sao không dùng ,,việc em đến.
Đám vô lối sau này cũng dốt nát tiếng Việt như Thanh Tâm Tuyền
“Sự mất ngủ của lửa,,
“Sự ấm áp của gối chăn,,…
-
Nguyễn
Quang Thiều
Đám vô lối này nên đến mộ cụ Đồ Chiểu vái cụ
ba vạn vái
“việc cấy, việc cày, việc bừa, tay vốn
làm quen.
Tập khiên, tập súng, tập cờ, mắt
chưa từng ngó”…
“Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc” - Nguyễn Đình Chiểu,,
Nguyễn Quang Thiều sinh năm 1957, quê
Hà Tây nay thuộc Hà Nội. Hiện Chủ tịch Hội Nhà văn Việt Nam
(xem Vô lối
Nguyễn Quang Thiều)
VÔ LỐI NGUYỄN
QUANG THIỀU
Đỗ Hoàng
Vô lối là một loại viết có từ thập kỷ 60 thế
kỷ trước và bùng phát nhiều nhất từ thập kỷ 90 thế kỷ trước đến hôm nay. Nó
càng bùng phát hơn nữa khi Hội Nhà văn Việt Nam năm 1993 trào giải cho tập “Sự
mất ngủ của lửa” của Nguyễn Quang Thiều và vừa rồi (năm 2011 - 2012), Hội Nhà
văn Việt Nam lại tiếp tục trao giải cho cả 4 tập của các tác giả Mai Văn Phấn,
Từ Quốc Hoài, Đỗ Doãn Phương, Định Thị Như Thúy, kiểu viết như Nguyễn Quang Thiều
nối dài.
Điển hình của
Vô lối là triệt tiêu một trăm phần vần điệu, xóa bỏ cách nghĩ, cách cảm của ông
cha và thơ ca truyền thống dân tộc và thế giới, tắc tỵ, rắc rối, tù mù, dài
dòng văn tự, dây cà ra dây muống, nhạt nhẽo, đánh đố mình, đánh đố người đọc,
dung tục, tình dục bệnh hoạn, sính dùng chữ nước ngoài một cách tùy tiện, tuỳ hứng…
Vô lối có một
đặc điểm nữa là không thể đọc nổi vài ba dòng.
Nguyễn Quang
Thiều cũng là một trong những đại biểu của Vô lối ấy vừa được các báo chí chính
thống, các vụ viện chính thống, các học giả, nhà phê bình, giáo sư đại học,
cánh hẩu viết bài lắng xê, ca ngợi hết lời. Họ coi đó là sự là “Hiện tượng thơ
Nguyễn Quang Thiều và lộ trình cách tân”, Thơ Nguyễn Quang Thiều nhìn từ mẫu gốc”
(Tạp chí Nhà văn số 6 - 2012); “Hộp đen”
Nguyễn Quang Thiều – Báo Văn nghệ số 17 + 18 tháng 4 – 2012...
Cách tân tức
là làm mới không chỉ ở thơ ca mà trong cuộc sống muôn loài cũng phải luôn luôn
đổi mới để phát triển tồn tại. Thế hệ sau tiến bộ hơn thế hệ trước thì muôn
loài, muôn vật, xã hội mới phát triển, không thì chỉ dừng lại và đi đến triệt
tiêu!
Nhưng làm mới
như thế nào? Tôi đã nhiều lần nói về việc làm mới. Làm mới – cách tân chứ không
phải cách mạng. Đến như cách mạng lật đổ hoàn toàn quá khứ mà người vẫn còn giữ
gìn và tiếp thu những ưu tú của đời trước để lại, huống hồ cách tân - làm mới,
phải có kế thừa và phát huy cái hay, cái đẹp của dân tộc, của nhân loại. Nhà
bác học Lê Quý Đôn nói: “Người tài giỏi
hơn hết một thời, cũng không được phá bỏ đời trước”
Những người
tìm tòi đổi mới thơ ca là đáng trân trọng. Nhưng lấy cớ tìm tòi đối mới để phá
bỏ, đạp đổ những chuẩn mực, những tinh hoa của cha ông từ muôn đời để lại là một
ý nghĩ, hành động điên rồ.
Hàn Mặc Tử
có nói: “Vẫn biết thơ ca phải tân kỳ (mới và lạ), song thơ ta là thơ quốc âm,
người phương Đông chuộng nỗi đau thâm trầm, nỗi buồn kín đáo. Ta phải thể hiện
cái tinh thần phương Đông ấy.”
Nhưng những
người viết hôm nay và nhất Nguyễn Quang Thiều không theo tiêu chí ấy mà đi tìm
một cách viết rất chi là Vô lối.
Nguyễn Quang
Thiều cố tìm một cách nói, cách lập ngôn như việc đặt tên tập thơ “Sự mất ngủ của
lửa” – (Hỏa đích bất thụy sự), đã thể hiện cách ấy. Đọc thấy lạ tai, không theo
cách nói cách viết thuần Việt, nó như là cách viết của Tây, nhưng Tây người ta
không viết thế. Câu thơ, câu văn của Tây dài nhưng phải chính xác, không thừa
chữ, không thừa ý và phải thuần chủng ngôn ngữ. Đằng này Nguyễn Quang Thiều cố
tạo ra cách viết lạ nhưng lại vừa dùng chữ nước ngoài, vừa không theo cách cảm
cách nghĩ của dân tộc. Cách này cũng đã có người trước Nguyễn Quang Thiều viết
như “Sự em có mặt cần thiết như những sớm mai” (Liên khúc những bài thơ tình thời
cách xa – Thanh Tâm Tuyền)
Chữ sự
nguyên là chữ Hán đã tương đối Việt hóa. Nó có ba nghĩa : 1- việc, 2 -
làm việc, 3 - thờ. Không hiểu sự mất ngủ của lửa ở đây là việc, làm việc
hay là thờ? Suy đoán trong bài hiểu theo nghĩa Hán “Hỏa đích bất thụy sự” thì có thể là việc. Dịch
ra là “Việc mất ngủ của lửa” chắc là đúng ý tác giả!
Yên ba thâm
xứ đàm quân sự
Dạ bán quy
lai nguyệt mãn thuyền
(Hồ Chí
Minh)
Giữa dòng
bàn bạc việc quân
Khuya về bát
ngát trăng ngân đầy thuyền
(Xuân Thủy dịch)
Thời Nguyễn
Đình Chiểu, cũng là thời Hán học đang thịnh hành, cụ Đồ Chiểu còn đi thi tú tài
Hán học, thế nhưng thơ Cụ, văn tế, phú của Cụ thì rất Việt hóa.
Việc cấy, việc
cày việc bừa tay vốn làm quen
Tập khiên, tập
súng, tập cớ mắt chưa từng ngó
(Văn tế
nghĩa sỹ Cần Giuộc )
Nếu viết như
Nguyễn Quang Thiều và Thanh Tâm Tuyền là phải:
Sự cấy, sự
cày, sự bừa tay vốn làm quen
Tập khiên, tập
súng, tập cờ mắt chưa từng ngó
Lại bàn về mất
ngủ. Mất ngủ chỉ một trạng thái tâm lý của con người do lao lực, do nghĩ ngợi
đau khổ nhiều, thần kinh yếu, do chấn động thân kinh, do chấn thương sọ não …nên
dẫn đến mất ngủ. Nói chung nó là một trạng thái bệnh lý nhiều hơn. Còn người khỏe
mạnh, thần kinh vững vàng thì khó có thể mất ngủ.
Cảnh khuya như vẻ người chưa ngủ,
Chưa ngủ vì lo nỗi nước nhà
(Hồ Chí Minh)
Người khỏe mạnh,
cứng rắn, người ta chưa ngủ hoặc người ta không ngủ để lo quốc gia đại sự, chứ
họ không bị chứng bệnh mất ngủ!
Vì vậy việc
đặt tên tập thơ “Sự mất ngủ của lửa” vừa không Việt hóa, vừa thừa chữ, thừa lời,
vừa không ổn trong nhận thức. Có thể đặt theo cách thuần Việt “Lửa mất ngủ” hoặc
“Lửa thức”…
Cách đặt tựa
đề, đặt câu này Nguyễn Quang Thiều lặp đi lặp lại ở nhiều bài khác như: “Sự ấm
áp gối chăn đã giữ chặt tôi” (Tiếng vọng) – In trong sách giáo khoa Tiếng Việt
lớp 5 tập một, tháng 1 năm 2011.
Ảnh Thiều
Nhà thơ Nguyễn
Quang Thiều
Cách viết của
Nguyễn Quang Thiều đa phần dài dòng văn tự. Viết ngắn viết dài tùy theo cảm
xúc, suy nghĩ, tùy theo mức độ tình cảm của tác giả. Cái đáng viết dài thì viết
dài, cái đáng viết ngắn thì viết ngắn. Có cái không đáng ba dòng tác giả lại
kéo ra tràng giang đại hải
“Những ngón
chân xương xẩu, móng dài và đen toẽ ra như móng chân gà mái.
Đã năm năm,
mười lăm năm, ba mươi năm và nửa đời tôi thấy
Những người
đàn bà xuống gánh nước sông
Những bối
tóc vỡ xối xả trên lưng áo mềm và ướt
Một bàn tay
họ bám vào đầu tròn gánh bé bỏng chơi vơi”
(Những người
đàn bà gánh nước sông)
Hay:
“Những chiều
xa quê tôi mong dòng sông dâng lên ngang trời cho tôi được nhìn thấy
Cho đôi mắt
nhớ thương của tôi như hai hốc đất ven bờ, nơi những chú bống đến làm tổ được
giàn dụa nước mưa sông. “ (Sông Đáy)
Nên nhớ rằng
“ Đoản thi tối hảo phá” (Thơ ngắn có sức mạnh vô biên). Ngay phương Tây cũng có
nói phải cô níc (viết ngắn).
Bác Hồ cũng
đã từng nói: “Bác ít có thi giờ xem văn nghệ, nhưng khi xem thì thấy nó dài
dòng, dây cà ra dây muống, hình như người viết cố viết dài ra để lấy nhuận bút.
Rồi lại sính dùng chữ nước ngoài. Chữ ta có thì nên dùng chữ ta, chữ ta không
có mới mượn chữ nước ngoài – theo “Giữ
gìn sự trong sáng tiếng Việt – Sửa đổi lề lối làm việc)
Có nhiều bài
viết vừa dài, vừa lập luận thừa thải. Điển hình là bài “Những người đàn bà gánh
nước sông” (đã trích dẫn ở trên). Ví dụ câu:
"Đã năm
năm, mười lăm năm, ba mươi năm và nửa đời tôi thấy”. Đã năm năm, mười lăm năm,
ba mươi năm và nửa đời tôi thấy, thì cần gì phải kể đến từng chặng một thời
gian như vậy. Kể thế sao cho hết. Nếu kể thế thì phải viết cho đủ: Đã một năm,
đã hai năm, đã ba năm… đã và đã, thì đến bao giờ mới kể xong. Viết chỉ ngắn gọn
là “nửa đời tôi thấy” thì vừa đầy đủ, vừa chính xác. Còn có những người, họ chỉ
sống 50 tuổi , 40 tuổi, 30 tuổi thì sao?
Mỉa mai thay
bài này đã được chọn in trong 100 bài thơ hay nhất thế kỷ XX(!)
Cách nghĩ và
cách viết không chính xác, viết lấy được của Nguyễn Quang Thiều còn nhiều nhiều.
Như bài “Trong quán rượu rắn”. Người ngồi
trong quán rượu rắn, chắc là không uống rượu nên tỉnh bơ, như uống nước chai
lave “Đêm vĩ đại chôn vùi trong quán nhỏ/ Rừng mang mang gọi từng khúc thu
vàng”. Người đọc tưởng tác giả đang đi dạo rừng thu bạch dương ở bên Nga!
“Những con rắn
bị thủy táng trong rượu". “Thủy
táng” là chôn nước. Táng - nguyên chữ
Hán là chôn, vùi đã tương đối Việt hóa.
Khi người chết, nhất là người thân, người ta dùng chữ táng cho nhẹ đi, đỡ đau
hơn nếu dùng chữ Việt là chôn hoặc vùi. Từ cổ đến nay có nhiều cách táng: thổ
táng, hỏa táng, thủy táng, mộc táng, điểu táng, thạch táng, cẩu táng, điện
táng… “Những con rắn bị thủy táng trong rượu” – Tức là những con rắn chôn nước
trong rượu. Thật ra rượu là nước có nồng độ men cao, cũng như nước biển có nồng
độ muối cao mà thồi. Những người đi biển khi chết được đem bỏ xuống biền và nói
như cách nói của Nguyễn Quang Thiều: “Những con người bị thủy táng trong biển”.
Nó vô lý và buồn cười, đau xót biết bao cho cách lập câu, cách viết như thế
này.
Cha ông ta đã có cách nói rất hay khi đem
bỏ thảo quả và động vật quý làm thuốc vào rượu và gọi là “ngâm rượu”: táo ngâm
rượu, cam ngâm rượu, lê, mận ngâm rượu, bìm bịp ngâm rượu, rắn độc ngâm rượu… Nếu
nói cho có hình ảnh mượn chữ Hán thì có thể nói “những con rắn bị đem tửu
táng”!
Cách viết của Nguyễn Quang Thiều rất kém
thi pháp (nghệ thuật thơ), lạm dụng nhiều chữ nhiều từ như : khóc, vỹ đại, lạm
dụng từ Hán Việt chưa được Việt hóa…
Những con cá thiêng quay mặt khóc
………
Và cá thiêng lại quay mặt khóc
(Những người đàn bà gánh nước sông – đã dẫn).
Ôi mùi cát khô, mùi tóc mẹ tôi
Tôi quì xuống vốc cát ấp vào mặt
Tôi khóc.
(Sông Đáy)
Nhà
thơ Trần Mạnh Hảo gọi Nguyễn Quang Thiều là “nhà khóc học” thật không sai!
Đêm vĩ đại chôn vùi trong quán nhỏ
(Trong quán rượu rắn)
Cha ông ta có những phép tu từ rất diệu
nghệ, người ta không hề nói đến một chữ khóc mà đời nào nghe cũng rưng rưng:
Cơm người khổ lắm mẹ ơi!
Chẳng như cơm mẹ vừa ngồi, vừa ăn
Hay:
Chiều chiều ra đứng ngõ chiều
Nhìn lên mả mẹ chín chìu ruột đau!
(Ca dao)
Bạn về chẳng có chi đưa
Có hai lọn nếp mà chưa lặt lòn!…
(Ca dao)
Rồi mùa toóc rạ rơm khô
Bạn về quê bạn biết mô mà tìm
(Ca dao)
Ở đây Nguyễn Quang Thiều và nhiều người viết
khác dùng vô thiên lũng chữ “ khóc”, người ta gọi là các “nhà khóc học” mà chẳng
làm một ai mủi lòng! Thật là tại hại!
Nguyễn Quang Thiều hay viết về quê hương
mình, vùng làng Chùa, sông Đáy là xứ Đoài xưa nhưng không hề thầy bóng dáng “Xứa
Đoài mây trắng” ở đâu, không thấy áo lụa Hà Đông ở đâu, không thấy Hà Tây quê lụa
ở đâu? Một miền cội nguồn dân ca Bắc Bộ, một miền hát xoan, ghẹobiến mất trong
cách viết của Nguyễn Quang Thiều!
Mà Xứ Đoài không chỉ người con của xứ sở ấy
máu thịt mà cả dân tộc, thậm chí cả châu Á, châu Âu cũng có trong hồn của họ.
Bao giờ trở lại đồng Bương Cấn
Lên núi Sài Sơn ngó lúa vàng
Sông Đáy chậm nguồn qua Phủ Quốc
Sáo diều khuy khoắt thổi đêm trăng
(Quang Dũng)
Nắng Sài Gòn anh đi mà chợt nhớ
Bởi vì em mặc áo lụa Đông
( Nguyên Sa)
Bóng chiếc thoi đưa, ánh mắt long lanh, trời
đất Hà Tây quê em dệt lụa
Mây trắng Ba Vì…hồn thơ Nguyễn Trãi
(Hà Tây quê lụa – Nhật Lai)
Một lần trò chuyện với nhà văn Trung Quốc
Trịnh Bá Nông nguyên Tổng biên tập báo Văn Nghệ Trung Quốc tại Bắc Kinh, ông
nói: “Ở việt Nam tôi yêu thích nhất là Ca dao và Quan họ Bắc Ninh”. Trong khi
đó các nhà thơ, nhạc sỹ nước mình đi tìm con cáo lông đen (ý của Gam zatop) ở
đâu đâu.
Viết ngắn, viết giản dị mới khó. Đông Tây,
kim cố gì cha ông cũng đã dạy
Rien n’est plus dificille que d’ecrire
ficille - Không có gì khó bằng viết dễ hiểu – Châm ngôn Pháp. "Công phu
thâm xứ thi bình dị" - Thơ hay nhất là thơ dễ hiểu – Lục Dụ đời Tống,
Trung Quốc.
Điển hình cho sự dài dòng văn tự, tắc tỵ lố
bịch, quái dị của Nguyễn Quang Thiều là bài “Lịch sử tấm thảm Thổ Nhĩ Kỳ”.
(Trích)
"Người hướng dẫn : Được dệt thủ công
bởi một người đàn bà Thổ Nhĩ Kỳ
"Người mua : Mua lại từ một ông già
da đen Cuba ở Havana năm 1986
"Chủ nhân : Qùa tặng của con trai
tôi. Được treo trên bức tường này 21 năm
Lúc gần sáng tiếng những cành khô gãy
Những con nai cái mùa động đực
Chủ nhân bức thảm 87 tuổi tỉnh giấc uống
trà nguội
Những con nai đực ngùn ngụt
Ngôi nhà như không bao giờ mở cửa
Một bà già đi tiểu lần thứ 5 nói : "Mẹ
đau lắm"…
Kịch không ra kịch, đối thoại không ra đối
thoại, tế không phải tế, cáo không phải cáo, điếu văn cũng không ra điều văn, kể
chuyện học sinh cũng không ra kể chuyện học sinh, nhật ký cũng không phải nhật
ký, hát ru bà, hát ru ông cũng không phải… Nó là một thứ ba đầu sáu tay, quái
thai văn chương. Thế rồi nó lại còn dung tục: “Một bà già đi tiểu 5 lần nói: “Mẹ
đau lắm!”. Trong bệnh viện khoa dưỡng lão, các bác sỹ ghi bệnh án còn sạch sẽ
hơn nhiều cái gọi là thơ này!
Thơ hậu hiện đại có thể lược bỏ vần điệu, coi
nhẹ vần điệu nhưng ý tứ phải sâu sắc, hình ảnh phải mới lạ, độc đáo, tình cảm
phải dạt dào rung động người đọc mới chấp nhận:
Thời gian ơi, xin hãy đừng trôi nữa
Đó là lời khẩn cầu
Của những kẻ đang yêu
Tại sao các vị lại không khẩn cầu ngược lại
Tình yêu hãy ở bên các người mãi mãi
Còn thời gian thì:
Cứ kệ nó trôi đi…
(Thời gian và tình yêu – Ion Milos – Nhà
thơ Thụy Điển – Thơ hậu hiện đại – Phạm Viết Đào dịch)
Hay:
Người đẹp
Ai viết tên em bằng ánh sáng
Ai vẽ hình em bằng ánh trăng
(Dân ca Dáy)
Người đẹp trông như tuyết
Chạm vào thấy nóng
Người đẹp trông như lửa
Sờ vào thấy mát
Người không khát - nhìn người đẹp cũng
khát
Người không đói - nhìn người đẹp cũng đói
Người muốn chết- nhìn người đẹp lại không
muốn chết nữa
Ơ! Người đẹp là ước mơ
Treo trước mắt mọi người!
(Lò Ngân Sủn)
hay:
Hôm qua sáu giờ năm mươi phút
Đồng chí Lê nin từ
trần
Năm này chứng kiến một lần
Điều bất hạnh trăm năm không thấy
nửa
Ngày ngày muôn thuở
Sẽ là truyền thuyết đau thương
Tin kinh hoàng
Sắt thép bất tiếng kêu than
Sóng nức nở trên những người cộng
sản
Sức nặng đè
ghê gớm
Không
lê nổi chân đi
Biết thế nào đây và làm gì nữa!
Nhà hát lớn trôi trên đường phố
Nỗi buồn như một cỗ xe tang
Nỗi vui bò như ốc như sên
Nỗi buồn chạy như điên
như dại
Không ánh mặt
trời
Không ánh băng sang dọi
Tất cả đã rắc một lớp tuyết đen
Sàng qua báo chí
Tin ập tới
Người công nhân trước máy
Như một chén lệ đổ
xuống bàn dụng cụ
Trẻ nhỏ bỗng nghiêm trang như các cụ già
Các cụ
già khóc như trẻ nhỏ!...
(Trường ca Vladimia Ilích Lê nin – Maiacop
xki – Trần Dần dịch)
Hay:
Sầm phu tử
Đan Khâu sinh
Tương tiến tửu
Bôi mạc đình
Thỉnh quân ca nhất khúc
Vị ngã khuynh nhĩ thinh
Chung cổ soạn ngọc bất túc quý
Đã nguyện trường túy bất nguyện tinh
Cổ lai thánh hiền giai tỉnh mịch
Duy hữu ẩm giả lưu kỳ danh
(Tương tiến tửu – Lý Bạch)
Sầm Phu tử
Đan Khâu sinh
Sắp mời rượu
Đừng có sai
Mời
anh ca một khúc
Vì tôi nghe mầy bài
Rượu tiệc ngon giữa trống chiêng nào có
đáng quý
Không muốn tình cứ say sưa mãi hoài
Xưa nay thánh hiền có ai tên tuổi
Chỉ kẻ uống rượu là lưu danh muôn đời
(Sắp mời rượu – Đỗ Hoàng dịch)
Nói vậy, chứ tiếng Việt lược bỏ hoàn toàn
vần điệu rất dễ chuốc lấy thất bại thảm hại. Vì tiếng Việt hoặc tiểng phương
Đông là xỉ âm – phát ra từ răng, phần nhiều một âm tiết, không như tiếng các Âu
– Mỹ - đa âm tiết, một từ nói đã có tính nhạc trong đó ví dụ như bữa ăn sáng
(phiên âm): bờ rét phát, đẹp - bui ti phul (Anh ), đẹp - kờrát xvưi (Nga)…
Nhà thơ Nguyễn Quang Thiều và một số nhà
thơ, người làm thơ khác cũng có công cố gắng tìm tòi, đấy là điều đáng trân trọng.
Nhưng theo quan điểm và cách thưởng thức, thẩm định của tôi thi những gì họ viết
ra không phải thi ca, văn chương. Họ hoàn toàn thật bại một trăm phần trăm.
Người viết ra loại Vô lối thật đáng trách,
người tung hô, in ấn lăng xê càng đáng trách hơn, tố chức nào đó trao tặng giải
thưởng, khuyến khích cổ vũ thì đáng trách vô cùng. Những người này nếu được đề
bạt quản lý cầm cương nảy mực nền văn nghệ nước nhà thì văn chương Việt đi đến
đâu? Nhãn tiền ấy mọi người đã rõ!
Hà nội
ngày 1 – 6 -2012
Đ.H.”
Không phải thời nay, mà thời tiền sử, thơ
có vần, không vần không quan trọng. Miễn là thơ phải có tứ. Không có tứ, thơ có
vần cũng vất đi. Lạm phát viết thơ không vần là biểu hiện vốn liếng ngôn ngữ mẹ
đẻ vô cùng yếu kém.
Đám vô lối là loại thi tặc (giặc thơ),
quái thai văn chương cõi Việt hôm nay và mai sau.
Hà Nội ngày 5/4/2022
Đ H
(còn nhiều nhiều nữa)