Thứ Sáu, 22 tháng 4, 2022

Tắt mạng nhanh

 


TẮT MẠNG NHANH

Đỗ Hoàng 
Buồi dái thằng nào cũng có khoang
Ngu ngơ trinh nữ bị đâm toang!
O vừa lên tóc thì bom nổ,
Mụ mới nới lưng bị đạn đoàng !
Văn nghệ văn gừng bầy cáo bãi,
Thầy mo thầy cãi đám chồn hoang!
Xưa nay phận gái đều lên thớt
Tắt mạng nhanh đi đỡ bớt xoàng!
Hà Nội chiều 17/4/2022
Đ - H

Thứ Sáu, 8 tháng 4, 2022

THƠ VÔ LỐI - THI TẶC (詩賊)

 


           THƠ VÔ LỐI  - THI TẶC (詩賊)

                          Đỗ Hoàng

      Số chuyên nghiệp làm thơ Vô lối nổi cộm độ trên dưới 20 vị. Thanh Tâm Tuyền, Lê Văn Ngăn, Nguyễn Quang Thiều, Nguyễn Bình Phương, Nguyễn Khoa Điềm, In ra sa ra, Mai Văn Phấn, Hoàng Vũ Thuật, Phan Hoàng, Trúc Thông, Phạm Đương, Tuyết Nga, Từ Quốc Hoài, Mai Quỳnh Nam, Trần Hùng,  Đỗ Doãn Phương, Văn Cầm Hải, Hoàng Hưng, Nguyễn Phan Quế Mai, Vi Thùy Linh, Đinh Thị Như Thúy, Phan Thị Vàng Anh, Mã Giang Lân, Thi Hoàng, Phan Huyền Thư…Số này đang chiếm diễn đàn các báo văn nghệ mậu dịch quốc doanh, tem phiếu. Nhất là từ khi Nguyễn Quang Thiều (Chủ tịch hội Nhà văn), Nguyễn Bình Phương (Phó Chủ tịch), Inra sa ra (Chủ tịch Hội đồng thơ), Trần Hùng (Ủy viên Ban chấp hành) Phan Hoàng (Ủy viên ban chấp hành), Phạm Đương…giữ vị trí lãnh đạo Hội Nhà văn Việt Nam (khóa X) thì thơ Vô lối bội sinh như nấm độc mọc lên sau mưa! Có những người trước làm thơ còn đọc được, sau học đòi và chiều lòng những ông Vô lối để được in báo, được giải thưởng nên cũng viết loăng quăng, làm bộ làm dáng cho ra vẻ đổi mới.  Những kẻ làm thơ Vô lối không có một tí tẹo nào gọi là cách tân, cách tiếc. Đặc điểm nổi bật nhất của họ là viết không vần, không điệu, họ cho là cách tân nhất, hậu hậu hiện đại nhất. Họ không những làm hỏng thơ ca tổ tiên mà còn phá nát cách cảm, cách nghĩ truyền thống, phá hoại chữ nghĩa thiêng liêng của ông cha  từ ngàn xưa.  Nhóm này hình thành nên một tốp Thi tặc (giặcThơ) rất nguy hiểm! Thơ không vần không có gì mới mẻ. Nhân loại và cha ông ta đã làm thơ không vần khi tiếng nói, chữ viết còn sơ khai!

Thơ cổ Trung Quốcạn năm hơn vạn năm trước:

KÍCH DƯỠNGCA

撃壤歌

吾日出而作

日入而息

井而飮

耕田而食

帝力于我 何有哉

Phiên âm Hán – Việt 

Kích nhưỡng ca

Ngô nhật xuất nhi tác

Nhật nhập nhi tức

Tạc tĩnh nhi ẩm

Canh điền nhi thực

Đế lực ư ngã hà hữu tai?

Đỗ Hoàng dịch nghĩa

BÀI CA LÀM ĐẤT

Mặt trời mọc, ta đi làm

Mặt trời lặn thì nghỉ

Đào giếng mà uống

Làm ruộng mà ăn

Sức vua làm gì ta nào ?

THƠ TỔ TIÊN TA

 « Bèo dạt mây trôi » hợn mấy nghìn năm trước

Bèo dạt mây trôi chốn xa xôi

anh ơi em vẫn đợi bèo dạt

mây trôi, chim sa

tang tính tình cá lội

ngậm một tin trông, hai tin đợi

ba bốn tin chờ sao chẳng thấy anh…”

THƠ CỔ SA DI – Ba Tư (hơn nghìn năm trước)

Ê, kẻ ba hoa bẻm mép kia, ngươi hát về tình yêu gì vậy?

Bởi ngươi cả đời một câu thơ cho ra hồn không viết nổi!

Hãy nhìn xem Sadi này theo ý của trời xanh

Không tâng bốc những kẻ chúa đất mà chỉ hát về tình.

 

*

 

Thiên hạ trách tôi: “Trước người yêu tự hạ mình không xứng đáng

Hay ngươi muốn huỷ diệt mình như một kẻ cuồng điên?”

Tôi trả lời: “Hỏi cô ấy mà xem, tôi như kẻ tù binh

Đừng hỏi tôi mà uổng công khi trên cổ tôi – dây thòng lọng”.

 

    Ở Việt Nam thơ Vô lối xuất hiện giữa thế kỷ XX và tồn tại đến hôm nay. Thanh Tâm Tuyền được coi là “ông Tổ” Vô lối.  Một số văn nghệ sĩ thời Việt Nam Cộng Hòa tôn vinh. Sau năm 1975, các tờ báo Văn nghệ, tạp chí Thơ  (đã xóa sổ), tạp chí Nhà văn & Tác phẩm thuộc Hội Nhà văn Việt Nam… cũng liên tục giới thiệu Tuyền. Đám choai choai mới nhập vào làng thơ Vô lối những ngày hội thơ rằm tháng giêng rước ảnh Thanh Tâm Tuyền trong sân Văn Miếu….

    Thanh Tâm Tuyền sinh ngày 13 tháng 3 năm 1936 tại Vinh, tên thật là Dzư Văn Tâm. Năm 1962, Thanh Tâm Tuyền nhập ngũ, 1966, giải ngũ, 1969, tái ngũ, ở trong quân đội đến 1975; cấp bậc cuối cùng là đại úy trong Quân lực Việt Nam Cộng hòa. Sau 1975, bị đi tù cải tạo 7 năm qua nhiều trại giam khắc nghiệt ngoài Việt Bắc. Thanh Tâm Tuyền ra tù 1982. Sang định cư tại Hoa Kỳ từ tháng 4 năm 1990 theo diện HO, sống ở tiểu bang Minnesota, Hoa Kỳ.

  Cuộc đời Thanh Tâm Tuyền lính tẩy là chủ yếu. Lính tẩy, ngụy, cộng gì bỏ qua, miễn là thơ có được không. Thơ Tuyền lại như cứt, như đời tâm lý chiến ngụy của Tuyền.

“tôi buồn khóc như buồn nôn,,,Phục sinh” 

  Buồn khóc là trạng thái tâm lý, buồn nôn là hiện tượng sinh lý. Hai thứ ấy làm sao mà giống nhau được. Một kiểu đương thời trong Nam coi là cách tân nhưng  là kiểu viết  ngu độn, vô học.

“tôi gọi tên tôi cho đỡ nhớ

thanh tâm tuyền,

tôi gào tên tôi thảm thiết

thanh tâm tuyền…”

Anh nhầm giữa tên và bút hiệu. Tên anh  là Dzư Văn Tâm, bút hiệu Thanh Tâm Tuyền.

 “Nhớ” là biểu hiện tâm lý, có sự giao thoa. Tên anh là một ký hiệu  vô cảm làm sao anh gọi cho đỡ nhỡ.

Lại kiểu viết ngu độn, vô học.

,tôi xin một chỗ quỳ thầm kín,

Thầm kín là một tính từ  là nỗi sâu kín ở trong lòng, không bộc lộ ra ngoài

như nỗi buồn thầm kín, như mơ ước thầm kín…Ai lại nói chỗ ngồi,,thầm kín,,.

Nhan nhản những câu viết ngô ngô ngọng ngọng  trong,,vô lối,, Thanh Tâm Tuyền như vậy.

“tôi thèm sống như thèm chết”.

  Thật không còn từ nào để chưởi kiểu viết vô học , ngu độn của Thanh Tâm Tuyền.

Ai cũng thèm sống, không có ai thèm chết.trừ những khoảnh khắc bi phẩn trong cuộc đời. Người ta muốn chết chứ không phải thèm chết.

Bọn vô lối học Thanh Tâm Tuyền sẽ viết tràn lan:

“tôi thèm vuốt cặc như thèm cắt cặc”

“tôi thèm đụ như thèm thiến dái”…

  Kiểu viết của Thanh Tâm Tuyền bọn vô lối hậu sinh học tập cóp sái cổ

« Kiếp sau tôi làm con chó 

Để để cất giữ nỗi buồn

Báu vật của quê hương»

« Bài hát về cố hương » -  Nguyễn Quang Thiều,

Lịch sử muôn loài vạn vật đi lên, chói lọi là làm con người, muốn quay lại làm kiếp chó. Dễ thôi. Đấy là bầy điên . Bầy vô lối bệnh hoạn.

  Thanh Tâm Tuyền viết vô lối như cứt chó mà cũng tự cao, tự đại, coi trời bằng chai

“Ở đây tôi là vị hoàng đế”

Ở đây tôi là vị hoàng đế đầy đủ quyền uy

bởi vì người vào trong đất đai của tôi

người hoàn toàn tự do

để cai trị tôi có những luật lệ tinh thần mà người phải thần phục

nếu người muốn nhập lãnh thổ

người hoàn toàn tự do

và có thể ném cuốn sách ra cửa sổ,,

  Đám vô lối hậu sinh dẩm phải nước đái của Tuyền cũng khệnh khạng cao ngạo ngu độn

« Ta im lặng

Chim hót

Họ thì vỗ cánh

 

Ta viết

Chim bay đi

Họ thì vỗ cánh

 

Ta nhìn ta mai mái một làn sương »

« Nhà thơ » của Nguyễn Bình Phương.

Đúng là bọn vô lối im lặng thì chim chóc mới hót được. Bọn vô lối mà viết thì chim chóc phải trốn biệt

贈裴公

看書山鳥棲窗

批札春花照硯池。

捷報頻來勞驛馬

思公即景贈新詩。

 

Tặng Bùi Công

Khán thư sơn điểu thê song hãn,

Phê trát xuân hoa chiếu nghiễn trì.

Tiệp báo tần lai lao dịch mã,

Tư công tức cảnh tặng tân thi

Hồ Chí Minh - 胡志明

Dịch thơ

Xem sách chim rừng vào cửa đậu

Phê văn hoa núi ghé nghiên soi

Tin vui thắng trận dồn chân ngựa

Nhớ cụ thơ xuân tặng một bài.

(Khuyết danh)

 Người đại trí, đại đức…hòa chung với thiên nhiên, chung vui với muôn vật, chung lòng với cộng đồng. Bọn chó vô lối không thể sống hòa hợp trong cộng đồng.

Thanh Tâm Tuyền cố tạo ra lối viết lạ tai nhưng vô nghĩa

« Những chữ nghĩa còn hoang

Câu thề thốt lạ thường

Nơi không gian còn tiết trinh,,

Ngón tay âm thầm trò chuyện

Những bước chân thỏ rừng

Chạy trên cỏ sắc

Sợi tóc đen như một chuỗi cười,,

 

Viết vô lối rất ngu độn - 

,,Em bao giờ là thiên nhiên

anh cúi đầu xuống ngực

dòng mưa sắc lá

đau môi,,

 Em, con người là một phần của thiên nhiên, tự nhiên, sao lại hỏi một câu vô bổ ngớ ngẩn như vậy.

 Thanh Tâm Tuyền rất dốt tiếng Việt

,,Sự em có mặt cần thiết như những sớm mai,,

 Câu vừa dài dòng, lê thê đầy chữ Hán.

sự là chữ Hán Việt hóa được nhiều, thường dùng trong hành chính, quân sự , chính trị… sự 1. việc, 2.  làm việc, 3. thờ. Sự em đến…là việc em đến. Sao không dùng ,,việc em đến.

  Đám vô lối sau này cũng dốt nát tiếng Việt như Thanh Tâm Tuyền

Sự mất ngủ của lửa,,

Sự ấm áp của gối chăn,,…

-         Nguyễn Quang Thiều

 Đám vô lối này nên đến mộ cụ Đồ Chiểu vái cụ ba vạn vái

“việc cấy, việc cày, việc bừa, tay vốn làm quen.

Tập khiên, tập súng, tập cờ, mắt chưa từng ngó”…

“Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc” -  Nguyễn Đình Chiểu,,

  Nguyễn Quang Thiều sinh năm 1957, quê  Hà Tây nay thuộc Hà Nội. Hiện Chủ tịch Hội Nhà văn Việt Nam

(xem Vô lối Nguyễn Quang Thiều)

 

VÔ LỐI NGUYỄN QUANG THIỀU

Đỗ Hoàng

   Vô lối là một loại viết có từ thập kỷ 60 thế kỷ trước và bùng phát nhiều nhất từ thập kỷ 90 thế kỷ trước đến hôm nay. Nó càng bùng phát hơn nữa khi Hội Nhà văn Việt Nam năm 1993 trào giải cho tập “Sự mất ngủ của lửa” của Nguyễn Quang Thiều và vừa rồi (năm 2011 - 2012), Hội Nhà văn Việt Nam lại tiếp tục trao giải cho cả 4 tập của các tác giả Mai Văn Phấn, Từ Quốc Hoài, Đỗ Doãn Phương, Định Thị Như Thúy, kiểu viết như Nguyễn Quang Thiều nối dài.

Điển hình của Vô lối là triệt tiêu một trăm phần vần điệu, xóa bỏ cách nghĩ, cách cảm của ông cha và thơ ca truyền thống dân tộc và thế giới, tắc tỵ, rắc rối, tù mù, dài dòng văn tự, dây cà ra dây muống, nhạt nhẽo, đánh đố mình, đánh đố người đọc, dung tục, tình dục bệnh hoạn, sính dùng chữ nước ngoài một cách tùy tiện, tuỳ hứng…

Vô lối có một đặc điểm nữa là không thể đọc nổi vài ba dòng.

Nguyễn Quang Thiều cũng là một trong những đại biểu của Vô lối ấy vừa được các báo chí chính thống, các vụ viện chính thống, các học giả, nhà phê bình, giáo sư đại học, cánh hẩu viết bài lắng xê, ca ngợi hết lời. Họ coi đó là sự là “Hiện tượng thơ Nguyễn Quang Thiều và lộ trình cách tân”, Thơ Nguyễn Quang Thiều nhìn từ mẫu gốc” (Tạp chí Nhà văn số 6  - 2012); “Hộp đen” Nguyễn Quang Thiều – Báo Văn nghệ số 17 + 18 tháng 4 – 2012...

Cách tân tức là làm mới không chỉ ở thơ ca mà trong cuộc sống muôn loài cũng phải luôn luôn đổi mới để phát triển tồn tại. Thế hệ sau tiến bộ hơn thế hệ trước thì muôn loài, muôn vật, xã hội mới phát triển, không thì chỉ dừng lại và đi đến triệt tiêu!

Nhưng làm mới như thế nào? Tôi đã nhiều lần nói về việc làm mới. Làm mới – cách tân chứ không phải cách mạng. Đến như cách mạng lật đổ hoàn toàn quá khứ mà người vẫn còn giữ gìn và tiếp thu những ưu tú của đời trước để lại, huống hồ cách tân - làm mới, phải có kế thừa và phát huy cái hay, cái đẹp của dân tộc, của nhân loại. Nhà bác học Lê Quý Đôn  nói: “Người tài giỏi hơn hết một thời, cũng không được phá bỏ đời trước”

Những người tìm tòi đổi mới thơ ca là đáng trân trọng. Nhưng lấy cớ tìm tòi đối mới để phá bỏ, đạp đổ những chuẩn mực, những tinh hoa của cha ông từ muôn đời để lại là một ý nghĩ, hành động điên rồ.

Hàn Mặc Tử có nói: “Vẫn biết thơ ca phải tân kỳ (mới và lạ), song thơ ta là thơ quốc âm, người phương Đông chuộng nỗi đau thâm trầm, nỗi buồn kín đáo. Ta phải thể hiện cái tinh thần phương Đông ấy.”

Nhưng những người viết hôm nay và nhất Nguyễn Quang Thiều không theo tiêu chí ấy mà đi tìm một cách viết rất chi là Vô lối.

Nguyễn Quang Thiều cố tìm một cách nói, cách lập ngôn như việc đặt tên tập thơ “Sự mất ngủ của lửa” – (Hỏa đích bất thụy sự), đã thể hiện cách ấy. Đọc thấy lạ tai, không theo cách nói cách viết thuần Việt, nó như là cách viết của Tây, nhưng Tây người ta không viết thế. Câu thơ, câu văn của Tây dài nhưng phải chính xác, không thừa chữ, không thừa ý và phải thuần chủng ngôn ngữ. Đằng này Nguyễn Quang Thiều cố tạo ra cách viết lạ nhưng lại vừa dùng chữ nước ngoài, vừa không theo cách cảm cách nghĩ của dân tộc. Cách này cũng đã có người trước Nguyễn Quang Thiều viết như “Sự em có mặt cần thiết như những sớm mai” (Liên khúc những bài thơ tình thời cách xa – Thanh Tâm Tuyền)

Chữ sự nguyên là chữ Hán đã tương đối Việt hóa. Nó có ba nghĩa : 1-  việc, 2 -  làm việc, 3 - thờ. Không hiểu sự mất ngủ của lửa ở đây là việc, làm việc hay là thờ? Suy đoán trong bài hiểu theo nghĩa Hán  “Hỏa đích bất thụy sự” thì có thể là việc. Dịch ra là “Việc mất ngủ của lửa” chắc là đúng ý tác giả!

Yên ba thâm xứ đàm quân sự

Dạ bán quy lai nguyệt mãn thuyền

(Hồ Chí Minh)

Giữa dòng bàn bạc việc quân

Khuya về bát ngát trăng ngân đầy thuyền

(Xuân Thủy dịch)

Thời Nguyễn Đình Chiểu, cũng là thời Hán học đang thịnh hành, cụ Đồ Chiểu còn đi thi tú tài Hán học, thế nhưng thơ Cụ, văn tế, phú của Cụ thì rất Việt hóa.

Việc cấy, việc cày  việc bừa tay vốn làm quen

Tập khiên, tập súng, tập cớ mắt chưa từng ngó

(Văn tế nghĩa sỹ Cần Giuộc )

Nếu viết như Nguyễn Quang Thiều và Thanh Tâm Tuyền là phải:

Sự cấy, sự cày, sự bừa tay vốn làm quen

Tập khiên, tập súng, tập cờ mắt chưa từng ngó

Lại bàn về mất ngủ. Mất ngủ chỉ một trạng thái tâm lý của con người do lao lực, do nghĩ ngợi đau khổ nhiều, thần kinh yếu, do chấn động thân kinh, do chấn thương sọ não …nên dẫn đến mất ngủ. Nói chung nó là một trạng thái bệnh lý nhiều hơn. Còn người khỏe mạnh, thần kinh vững vàng thì khó có thể mất ngủ.

 Cảnh khuya như vẻ người chưa ngủ,

 Chưa ngủ vì lo nỗi nước nhà

 (Hồ Chí Minh)

Người khỏe mạnh, cứng rắn, người ta chưa ngủ hoặc người ta không ngủ để lo quốc gia đại sự, chứ họ không bị chứng bệnh mất ngủ!

Vì vậy việc đặt tên tập thơ “Sự mất ngủ của lửa” vừa không Việt hóa, vừa thừa chữ, thừa lời, vừa không ổn trong nhận thức. Có thể đặt theo cách thuần Việt “Lửa mất ngủ” hoặc “Lửa thức”…

Cách đặt tựa đề, đặt câu này Nguyễn Quang Thiều lặp đi lặp lại ở nhiều bài khác như: “Sự ấm áp gối chăn đã giữ chặt tôi” (Tiếng vọng) – In trong sách giáo khoa Tiếng Việt lớp 5 tập một, tháng 1 năm 2011.

                        Ảnh Thiều

                                  Nhà thơ Nguyễn Quang Thiều

Cách viết của Nguyễn Quang Thiều đa phần dài dòng văn tự. Viết ngắn viết dài tùy theo cảm xúc, suy nghĩ, tùy theo mức độ tình cảm của tác giả. Cái đáng viết dài thì viết dài, cái đáng viết ngắn thì viết ngắn. Có cái không đáng ba dòng tác giả lại kéo ra tràng giang đại hải

“Những ngón chân xương xẩu, móng dài và đen toẽ ra như móng chân gà mái.

Đã năm năm, mười lăm năm, ba mươi năm và nửa đời tôi thấy

Những người đàn bà xuống gánh nước sông

Những bối tóc vỡ xối xả trên lưng áo mềm và ướt

Một bàn tay họ bám vào đầu tròn gánh bé bỏng chơi vơi”

(Những người đàn bà gánh nước sông)

Hay:

“Những chiều xa quê tôi mong dòng sông dâng lên ngang trời cho tôi được nhìn thấy

Cho đôi mắt nhớ thương của tôi như hai hốc đất ven bờ, nơi những chú bống đến làm tổ được giàn dụa nước mưa sông. “ (Sông Đáy)

Nên nhớ rằng “ Đoản thi tối hảo phá” (Thơ ngắn có sức mạnh vô biên). Ngay phương Tây cũng có nói phải cô níc (viết ngắn).

Bác Hồ cũng đã từng nói: “Bác ít có thi giờ xem văn nghệ, nhưng khi xem thì thấy nó dài dòng, dây cà ra dây muống, hình như người viết cố viết dài ra để lấy nhuận bút. Rồi lại sính dùng chữ nước ngoài. Chữ ta có thì nên dùng chữ ta, chữ ta không có mới mượn chữ nước ngoài –   theo “Giữ gìn sự trong sáng tiếng Việt – Sửa đổi lề lối làm việc)

Có nhiều bài viết vừa dài, vừa lập luận thừa thải. Điển hình là bài “Những người đàn bà gánh nước sông” (đã trích dẫn ở trên). Ví dụ câu:

"Đã năm năm, mười lăm năm, ba mươi năm và nửa đời tôi thấy”. Đã năm năm, mười lăm năm, ba mươi năm và nửa đời tôi thấy, thì cần gì phải kể đến từng chặng một thời gian như vậy. Kể thế sao cho hết. Nếu kể thế thì phải viết cho đủ: Đã một năm, đã hai năm, đã ba năm… đã và đã, thì đến bao giờ mới kể xong. Viết chỉ ngắn gọn là “nửa đời tôi thấy” thì vừa đầy đủ, vừa chính xác. Còn có những người, họ chỉ sống 50 tuổi , 40 tuổi, 30 tuổi thì sao?

Mỉa mai thay bài này đã được chọn in trong 100 bài thơ hay nhất thế kỷ XX(!)

Cách nghĩ và cách viết không chính xác, viết lấy được của Nguyễn Quang Thiều còn nhiều nhiều. Như bài “Trong quán rượu rắn”.  Người ngồi trong quán rượu rắn, chắc là không uống rượu nên tỉnh bơ, như uống nước chai lave “Đêm vĩ đại chôn vùi trong quán nhỏ/ Rừng mang mang gọi từng khúc thu vàng”. Người đọc tưởng tác giả đang đi dạo rừng thu bạch dương ở bên Nga!

“Những con rắn bị thủy táng trong rượu". “Thủy táng” là chôn nước. Táng -  nguyên chữ Hán là chôn, vùi  đã tương đối Việt hóa. Khi người chết, nhất là người thân, người ta dùng chữ táng cho nhẹ đi, đỡ đau hơn nếu dùng chữ Việt là chôn hoặc vùi. Từ cổ đến nay có nhiều cách táng: thổ táng, hỏa táng, thủy táng, mộc táng, điểu táng, thạch táng, cẩu táng, điện táng… “Những con rắn bị thủy táng trong rượu” – Tức là những con rắn chôn nước trong rượu. Thật ra rượu là nước có nồng độ men cao, cũng như nước biển có nồng độ muối cao mà thồi. Những người đi biển khi chết được đem bỏ xuống biền và nói như cách nói của Nguyễn Quang Thiều: “Những con người bị thủy táng trong biển”. Nó vô lý và buồn cười, đau xót biết bao cho cách lập câu, cách viết như thế này.

Cha ông ta đã có cách nói rất hay khi đem bỏ thảo quả và động vật quý làm thuốc vào rượu và gọi là “ngâm rượu”: táo ngâm rượu, cam ngâm rượu, lê, mận ngâm rượu, bìm bịp ngâm rượu, rắn độc ngâm rượu… Nếu nói cho có hình ảnh mượn chữ Hán thì có thể nói “những con rắn bị đem tửu táng”!

Cách viết của Nguyễn Quang Thiều rất kém thi pháp (nghệ thuật thơ), lạm dụng nhiều chữ nhiều từ như : khóc, vỹ đại, lạm dụng từ Hán Việt chưa được Việt hóa…

Những con cá thiêng quay mặt khóc

………

Và cá thiêng lại quay mặt khóc

(Những người đàn bà gánh nước sông – đã dẫn).

Ôi mùi cát khô, mùi tóc mẹ tôi

Tôi quì xuống vốc cát ấp vào mặt

Tôi khóc.

(Sông Đáy)

 Nhà thơ Trần Mạnh Hảo gọi Nguyễn Quang Thiều là “nhà khóc học” thật không sai!

Đêm vĩ đại chôn vùi trong quán nhỏ

(Trong quán rượu rắn)

Cha ông ta có những phép tu từ rất diệu nghệ, người ta không hề nói đến một chữ khóc mà đời nào nghe cũng rưng rưng:

Cơm người khổ lắm mẹ ơi!

Chẳng như cơm mẹ vừa ngồi, vừa ăn

Hay:

Chiều chiều ra đứng ngõ chiều

Nhìn lên mả mẹ chín chìu ruột đau!

(Ca dao)

Bạn về chẳng có chi đưa

Có hai lọn nếp mà chưa lặt lòn!…

(Ca dao)

Rồi mùa toóc rạ rơm khô

Bạn về quê bạn biết mô mà tìm

(Ca dao)

Ở đây Nguyễn Quang Thiều và nhiều người viết khác dùng vô thiên lũng chữ “ khóc”, người ta gọi là các “nhà khóc học” mà chẳng làm một ai mủi lòng! Thật là tại hại!

Nguyễn Quang Thiều hay viết về quê hương mình, vùng làng Chùa, sông Đáy là xứ Đoài xưa nhưng không hề thầy bóng dáng “Xứa Đoài mây trắng” ở đâu, không thấy áo lụa Hà Đông ở đâu, không thấy Hà Tây quê lụa ở đâu? Một miền cội nguồn dân ca Bắc Bộ, một miền hát xoan, ghẹobiến mất trong cách viết của Nguyễn Quang Thiều!

Mà Xứ Đoài không chỉ người con của xứ sở ấy máu thịt mà cả dân tộc, thậm chí cả châu Á, châu Âu cũng có trong hồn của họ.

Bao giờ trở lại đồng Bương Cấn

Lên núi Sài Sơn ngó lúa vàng

Sông Đáy chậm nguồn qua Phủ Quốc

Sáo diều khuy khoắt thổi đêm trăng

(Quang Dũng)

Nắng Sài Gòn anh đi mà chợt nhớ

Bởi vì em mặc áo lụa Đông

( Nguyên Sa)

Bóng chiếc thoi đưa, ánh mắt long lanh, trời đất Hà Tây quê em dệt lụa

Mây trắng Ba Vì…hồn thơ Nguyễn Trãi

(Hà Tây quê lụa – Nhật Lai)

Một lần trò chuyện với nhà văn Trung Quốc Trịnh Bá Nông nguyên Tổng biên tập báo Văn Nghệ Trung Quốc tại Bắc Kinh, ông nói: “Ở việt Nam tôi yêu thích nhất là Ca dao và Quan họ Bắc Ninh”. Trong khi đó các nhà thơ, nhạc sỹ nước mình đi tìm con cáo lông đen (ý của Gam zatop) ở đâu đâu.

Viết ngắn, viết giản dị mới khó. Đông Tây, kim cố gì cha ông cũng đã dạy

Rien n’est plus dificille que d’ecrire ficille - Không có gì khó bằng viết dễ hiểu – Châm ngôn Pháp. "Công phu thâm xứ thi bình dị" - Thơ hay nhất là thơ dễ hiểu – Lục Dụ đời Tống, Trung Quốc.

Điển hình cho sự dài dòng văn tự, tắc tỵ lố bịch, quái dị của Nguyễn Quang Thiều là bài “Lịch sử tấm thảm Thổ Nhĩ Kỳ”.

(Trích)

"Người hướng dẫn : Được dệt thủ công bởi một người đàn bà Thổ Nhĩ Kỳ

"Người mua : Mua lại từ một ông già da đen Cuba ở Havana năm 1986

"Chủ nhân : Qùa tặng của con trai tôi. Được treo trên bức tường này 21 năm

Lúc gần sáng tiếng những cành khô gãy

Những con nai cái mùa động đực

Chủ nhân bức thảm 87 tuổi tỉnh giấc uống trà nguội

Những con nai đực ngùn ngụt

Ngôi nhà như không bao giờ mở cửa

Một bà già đi tiểu lần thứ 5 nói : "Mẹ đau lắm"…

Kịch không ra kịch, đối thoại không ra đối thoại, tế không phải tế, cáo không phải cáo, điếu văn cũng không ra điều văn, kể chuyện học sinh cũng không ra kể chuyện học sinh, nhật ký cũng không phải nhật ký, hát ru bà, hát ru ông cũng không phải… Nó là một thứ ba đầu sáu tay, quái thai văn chương. Thế rồi nó lại còn dung tục: “Một bà già đi tiểu 5 lần nói: “Mẹ đau lắm!”. Trong bệnh viện khoa dưỡng lão, các bác sỹ ghi bệnh án còn sạch sẽ hơn nhiều cái gọi là thơ này!

Thơ hậu hiện đại có thể lược bỏ vần điệu, coi nhẹ vần điệu nhưng ý tứ phải sâu sắc, hình ảnh phải mới lạ, độc đáo, tình cảm phải dạt dào rung động người đọc mới chấp nhận:

Thời gian ơi, xin hãy đừng trôi nữa

Đó là lời khẩn cầu

Của những kẻ đang yêu

Tại sao các vị lại không khẩn cầu ngược lại

Tình yêu hãy ở bên các người mãi mãi

Còn thời gian thì:

Cứ kệ nó trôi đi…

(Thời gian và tình yêu – Ion Milos – Nhà thơ Thụy Điển – Thơ hậu hiện đại – Phạm Viết Đào dịch)

Hay:

Người đẹp  

Ai viết tên em bằng ánh sáng

Ai vẽ hình em bằng ánh trăng

(Dân ca Dáy)

 

Người đẹp trông như tuyết

Chạm vào thấy nóng

Người đẹp trông như lửa

Sờ vào thấy mát

Người không khát - nhìn người đẹp cũng khát

Người không đói - nhìn người đẹp cũng đói

Người muốn chết- nhìn người đẹp lại không muốn chết nữa

Ơ! Người đẹp là ước mơ

Treo trước mắt mọi người!

(Lò Ngân Sủn)

hay:

Hôm qua sáu giờ năm mươi phút

                           Đồng chí Lê nin từ trần

Năm này chứng kiến một lần

              Điều bất hạnh trăm năm không thấy nửa

                       Ngày ngày muôn thuở

Sẽ là truyền thuyết đau thương

                  Tin kinh hoàng

Sắt thép bất tiếng kêu than

               Sóng nức nở trên những người cộng sản

                                    Sức nặng đè ghê gớm

                                          Không lê nổi chân đi

Biết thế nào đây và làm gì nữa!

                 Nhà hát lớn trôi trên đường phố

Nỗi buồn như một cỗ xe tang

                  Nỗi vui bò như ốc như sên

                       Nỗi buồn chạy như điên như dại

                                  Không ánh mặt trời

                                                Không ánh băng sang dọi

Tất cả đã rắc một lớp tuyết đen

                        Sàng qua báo chí

Tin ập tới

                Người công nhân trước máy

                      Như một chén lệ đổ xuống bàn dụng cụ

Trẻ nhỏ bỗng nghiêm trang như các cụ già

                                        Các cụ già khóc như trẻ nhỏ!...

(Trường ca Vladimia Ilích Lê nin – Maiacop xki – Trần Dần dịch)

Hay:

Sầm phu tử

Đan Khâu sinh

Tương tiến tửu

Bôi mạc đình

Thỉnh quân ca nhất khúc

Vị ngã khuynh nhĩ thinh

Chung cổ soạn ngọc bất túc quý

Đã nguyện trường túy bất nguyện tinh

Cổ lai thánh hiền giai tỉnh mịch

Duy hữu ẩm giả lưu kỳ danh

(Tương tiến tửu – Lý Bạch)

Sầm Phu tử

Đan Khâu sinh

Sắp mời rượu

Đừng có sai

Mời  anh ca một khúc

Vì tôi nghe mầy bài

Rượu tiệc ngon giữa trống chiêng nào có đáng quý

Không muốn tình cứ say sưa mãi hoài

Xưa nay thánh hiền có ai tên tuổi

Chỉ kẻ uống rượu là lưu danh muôn đời

(Sắp mời rượu – Đỗ Hoàng dịch)

Nói vậy, chứ tiếng Việt lược bỏ hoàn toàn vần điệu rất dễ chuốc lấy thất bại thảm hại. Vì tiếng Việt hoặc tiểng phương Đông là xỉ âm – phát ra từ răng, phần nhiều một âm tiết, không như tiếng các Âu – Mỹ - đa âm tiết, một từ nói đã có tính nhạc trong đó ví dụ như bữa ăn sáng (phiên âm): bờ rét phát, đẹp - bui ti phul (Anh ), đẹp -  kờrát xvưi (Nga)…

Nhà thơ Nguyễn Quang Thiều và một số nhà thơ, người làm thơ khác cũng có công cố gắng tìm tòi, đấy là điều đáng trân trọng. Nhưng theo quan điểm và cách thưởng thức, thẩm định của tôi thi những gì họ viết ra không phải thi ca, văn chương. Họ hoàn toàn thật bại một trăm phần trăm.

Người viết ra loại Vô lối thật đáng trách, người tung hô, in ấn lăng xê càng đáng trách hơn, tố chức nào đó trao tặng giải thưởng, khuyến khích cổ vũ thì đáng trách vô cùng. Những người này nếu được đề bạt quản lý cầm cương nảy mực nền văn nghệ nước nhà thì văn chương Việt đi đến đâu? Nhãn tiền ấy mọi người đã rõ!

                                        Hà nội ngày 1 – 6 -2012

                                                  Đ.H.”

 

Không phải thời nay, mà thời tiền sử, thơ có vần, không vần không quan trọng. Miễn là thơ phải có tứ. Không có tứ, thơ có vần cũng vất đi. Lạm phát viết thơ không vần là biểu hiện vốn liếng ngôn ngữ mẹ đẻ vô cùng yếu kém.

  Đám vô lối là loại thi tặc (giặc thơ),  quái thai văn chương cõi Việt hôm nay và mai sau.

    Hà Nội ngày 5/4/2022

Đ  H

(còn nhiều nhiều nữa)