HỮU THỈNH NHẬN ĐỊNH, ĐÁNH GIÁ THƠ
THANH TÙNG KHÔNG CHÍNH XÁC! (1)
Đỗ
Hoàng
Thế
hệ thơ Hữu Thỉnh là một thế hệ lên gân, gồng mình như con cọng vó trước con mảng
xà tinh, đủ các giọng: ca học, hót học, sáo học, tấu hài học, cười học, vè học,
tò he học, nịnh học, giả vờ học, khóc học, nước mắt cá sấu học, tin tưởng học, lạc quan tếu học, lên gân học, vô học, vô lối
học...Từ Trung ương cho dến địa phương đâu đâu người ta cũng nghe một giọng kèn
frompet đơn điệu cũ mèm như thế!
Thanh Tùng ở Hải Phòng cũng bị vòng kim cô
chính thể kiềm tỏa. Thơ ông cũng một giọng
đồng ca sáo, dở, nhạt, nhắng...Thanh
Tùng thuộc dòng vô lối, lược bỏ vần điệu nhưng chung chung, sáo rỗng, không một
triết lý gì cao xa, không một công lênh gì quan trọng, không một câu lảm rung động
lòng người! Kém học. Thanh Tùng nối hơn đám Thi Hoàng, Đào Cảng, Nguyễn Tùng
Linh... là nhờ có một anh nhạc sĩ vườn phổ nhạc cho bài " Thời hoa đỏ"
được đám văn nô , nhạc nô tung hê. Thực ra bài "Thời hoa đỏ" chung
chung, nhạt nhẽo chả nói lên được cái gì.(Xem phụ lục bản dịch ra thơ Việt
sau). Thời ấy, người ta thích cái gì cũng Đỏ. Được vào Đảng Cộng sản họ gọi người
ấy là "Đỏ". Có "Đỏ" con gái mới yêu, trong tiêu chuẩn bốn
"Đờ" của họ: Đỏ, Đại, Đẹp, Đài (Đại học, Đài - ra đi ô - giàu). Thơ
ca cũng phải có "Đỏ" mới cao sang, nhạc sĩ mới phổ nhạc (!). Cuộc
chia lý màu đỏ - Nguyễn Mỹ, Lá đỏ - Nguyễn Đình Thi, Thời hoa đỏ - Thanh
Tùng...Một mẹo vặt viết lách thời thượng! Rồi áo đỏ, quân đỏ, khăn đỏ, nón đỏ,
mũ đỏ...xi líp đỏ... Đất đai cũng phải "Đỏ" - Thành phố Hoa phượng Đỏ
- Hải Phòng! Đất Đỏ Bà Rịa.
Thế mà Hữu Thỉnh bốc thơm " Trực giác mạnh
mẽ và tươi tốt của Thanh Tùng" (1) Không có ai nói trực giác "mạnh mẽ
và tươi tốt" cải lương như Hữu Thỉnh. Hữu Thỉnh không hiểu trực giác là
gì, cứ ví nó như đám rau cải, su hào...cho cứt vào là tươi tốt (!).
"Trực giác là nhận thức đặc biệt, bẩm
sinh, không dựa trên thực tiễn và cũng không dựa vào hoạt động lô gic của ý thức".
(Từ điển học sinh tiếng Việt). Nói trực
giác "mạnh mẽ và tươi tốt" như cách đem phân bắc bón cho thơ vô lối
Thanh Tùng vậy!
"Nếu
tìm anh em hãy lên đây
Nơi
mỗi sáng anh đặt viên gạch
Gọi
mặt trời thức dậy
Nơi
mỗi chiều viên gạch
Còn
như một mảnh mặt trời
Chưa
chịu lặn trên tay"
Khổ vô lối này rất dao to búa lớn, cường điệu
lao động của anh thợ xây. Ừ thì họ lao động mệt mói, họ tự hào một chút giữa
công trường thi được. Thơ ca gì kiểu này, nhưng Hữu Thỉnh bốc lên: "Thử hỏi
có gì mới, trong công việc của anh thợ xây? Thuở trước, các cụ đã có câu:
" Để yên là đất, cất lên là nhà" sâu sắc đến không thể hay lên được.
Gần lại Nguyễn Bính rất sớm có một trường ca Xây nhà máy. Hoàng Vân nổi tiếng với
ca khúc Bài ca xây dựng "Cho ngày nay, cho ngày mai, cho muôn đời
sau" Thế mà đến lượt Thanh Tùng, anh vẫn có cách nói hoàn toàn mới, theo
hướng kỳ vĩ hóa"...Một cách nói gián tiếp, nhưng lại rất trực tiếp tôn cao
tầm vóc của người thợ. Và công việc của người thợ xây ở đây không còn là công
việc xây một cái nhà cụ thể nào nữa, mà xây cả một vũ trụ..."
Thơ sáo và lên gân đến thế là cùng, mà lại dở.
Cha ông ta nói hay biết mấy1 Không ồn ào, không cao giọng, không hô hào: "
Để yên là đất, cất lên là nhà"! Kiểu thơ thế hệ văn nô Thanh Tùng không
bao giờ với đến! Thanh Tùng đã sáo rỗng, lên gân, Hữu Thỉnh bình càng lên gân
hơn, sáo rỗng hơn! Kiểu lên gân phóng đại tô mãu, nói lấy được có từ thế hệ trước:
"
Nay này đế quốc biết hay chăng?
Người
đã già nua, ta trẻ măng
Trái
đất ngươi ôm, ôm chẳng nổi
Trời
kia ta với tới cung trăng"
(Trần
Minh Tước - Xích Điểu)
Thanh Tùng cả sáo rỗng, lên gân và đại ngôn
khi tự tuyên ngôn cho mình nhưng điều dao to, búa lớn, cao ngạo:
"Biển
gọi tôi thành sóng
Tiếng
chúng ta say lên chất ngất
Hủy
bỏ tận cùng im lặng
Cho
tôi là biển kéo dài
Chẳng
lo tan hoang chỉ sợ mình kép lại
Không
quẩn quanh róc rách dưới bình yên"
Đại thi
hào Nguyễn Du cũng chỉ dám nói:
"Lời
quê chắp nhặt dong dài
Mua
vui cũng được một vài trống cánh"
Những nhà cách mạng lớn, tài danh như Hoàng
Văn Hoan cũng chỉ tự nhận mình là giọt nước của biển cả (Hồi ký "Giọt nước
giữa biển cả - Hoàng Văn Hoan). Một anh thợ ngõa, thợ đụng mà dám "Cho tôi
là biển kéo dài". Thật ngông cuồng! Ếch ngồi đáy giếng mơ đớp sao trên trời!
Kiểu nói chủ nghĩa Cộng sản tuyên truyền"
Làm theo năng lực, hưởng theo nhu cầu". Ăn to nói lớn! Ăn to nói lớn đi lừa
thiên hạ có thể kiếm được nhiều thứ,nhưng ăn to nói lớn trong thơ là hỏng!
Đoạn trích trên có thơ phú gì đâu. Nó là thứ
vô lối. Dịch ra thơ Việt:
"Biển
gọi, tôi thành sóng
Chất
ngất những lời say
Đừng
có im lặng nữa
Cho
tôi biển kéo dài!
Sợ
mình tan khép lại
Róc
rách bên tượng đài"
(Đỗ
Hoàng dịch)
Hữu Thỉnh tán rất ngọt nước:
"Chọn
một cách sống" Không quẩn quanh róc rách dưới bình yên" cho mình thì
những vênh lệch, những trắc trở, kể cả
những phản phúc đón đường sẽ là chuyện khó tránh. Thanh Tùng không phải
không biết đến điều đó. Nhưng là một nhà thơ đích thực, anh không thể tiêu phi
sinh lực vào chuyện thúc thủ mà trả hết mình cho đời sống."
Thanh Tùng cũng như Hữu Thỉnh và thế hệ của họ
đều mắc " Tứ chứng Thi Y" - sáo, dở , nhạt, nhắng". Các bệnh nan
y này rất đậm trong "Vô lối " Thanh Tùng:
Sáo:
"Cái
nghề bốc vác của tôi
Trong cơn mơ còn thấy những giọt mồ hôi cười
Tôi
sợ nó và tôi yêu nó
Như
người mẹ sợ cơn đau đẻ nhưng vẫn thèm có con"
"
Mơ thấy những giọt mồ hôi cười" thì quá sáo! Phải là "Nghề bốc vác của
tôi trong cơn mơ thấy những giọ mồ hôi hóa thành giọt máu!
Thơ dân
gian hay hơn nhiều! Thời ấy những nhà thơ dân gian vì lý lịch gia đình không được
đi đại học phải bị đẩy về địa phương làm thợ ngõa, phu hồ, vôi vữa họ viết rất
chân thực., không một chút gượng cười kiểu Thanh Tùng:
"Em
ơi em, đừng yêu anh nữa
Trái
tim anh vôi vữa hết rồi"
Thanh Tùng cũng như lớp Thanh Tùng, Hữu Thỉnh,
Thi Hoàng... đều sính nói kiểu cách. Anh em gọi kiểu gái già son phấn, làm
duyên, làm dáng trái mùa. Họ lấy cái phi vật thể làm vật thể, lấy cái ảo làm
cái thực. Tôi đã nói nhiều về cách làm
này. Cách làm này không mới, cha ông ta làm hàng ngàn năm nay:
"Sầu
đong càng lắc, càng đầy
Ba
thu dồn lại một ngày dài ghê"
(Đoạn
trường tân thanh - Nguyễn Du)
Cách làm này làm dụng nhiều quá sẽ bội thực!
Dở:
Thi
Hoàng:
"Những
buổi chiều không biết cất vào đâu?"
Sao
lại không biết cất vào đâu?
Người
Việt biết chỗ cất đấy:
"Thương
em anh biết để đâu
Cất
vào tay áo lâu lâu lại dòm!"
(Ca
dao)
Hữu
Thỉnh:
"Cô
đơn đầy đường
Không
ai thèm nhặt"
Nói cô đơn đầy đường thì nói nỗi buồn đầy núi
thì có sao đâu?
Nói
"một mình" hay hơn "cô đơn" không, thuần Việt hơn không!
Tố
Như 300 năm trước còn Việt hóa hơn Hữu Thỉnh:
"Một
mình lặng ngắm bóng nga
Rộn
đường gần với nẻo xa bờì bời"
(Nguyễn
Du)
Thanh
Tùng:
"Ai
cắn vào trái mận
Mà
ngọt nửa không gian"
Tất
cả đều cố làm dáng, làm phách nhưng cõi lòng thì lạnh tanh máu cá, không có một
chút gì rung động tấm lòng người đọc!
Rồi vừa sáo, vừa dở, vừa nhạt, vừa nhắng thêm
vừa sến, dạ trước mặt trẩy cặc sau lưng:
"Như
thủy thủ săp ra khơi kiểm tra phần nước ngọt
Tôi
hát thầm Tiến quân ca"
(Lần
đầu ra nước ngoài)
Ê
xê nhin có hát quốc ca Nga đâu mà câu thơ của ông đọc qua bản dịch vẫn rất xúc
động, hào sảng gần thế kỷ còn mới :
Rồi
khi ấy
Tôi
sẽ ngợi ca với sức bình sinh có trong người thi sĩ
dải
đất chiếm một phần sáu địa cầu
mang
cái tên ngắn ngủi là Nga!"
Câu:"Như thủy thủ săp ra khơi kiểm tra
phần nước ngọt
Tôi
hát thầm Tiến quân ca"
(Lần
đầu ra nước ngoài)
Đây là câu viết thối nhất thế giới! Một câu nịnh
Đảng, nịnh Chế độ mà đến Đảng, Chế độ cũng phải đỏ mặt tía tai vì xấu hổ, vì kẻ
nịnh không đúng lúc! Bài hát Tiến quân ca là Quốc ca của nước hòa xã hội chủ
nghĩa Việt Nam, con dân nào cũng thuộc, cũng hát, nhưng hát thời điểm nào.? Người
ta hát trong buổi lễ chào cờ, lễ kết nạp, trong các lễ lạt...Không ai đang lên
tàu chuẩn bị đi du lịch lại hát Quốc ca! Có bị điên không đấy? Yêu Đảng, yêu nước
đến mực ấy thì 10 tỷ người hành tinh này chi duy một Thanh Tùng (!)
Giả tạo đến nước ấy thì cũng phải nói câu rất
cũ: "bó tay chấm com!"
Gặp những câu vớ vẩn, thần kinh điên rồ như
thế này, có yêu bạn bắng mấy thì cũng bỏ qua đi. Đằng này Hữu Thỉnh lại tô son
trát phấn: "Cái bút pháp nồng nàn và luôn luôn đột biến ấy của Thanh Tùng sẽ còn làm nên vẻ đẹp của rất
nhiều bài thơ khác . Nhưng đến khi nói về những gì thiêng liêng nhất , thì thơ
anh lại có một sự chuyển hóa theo một hướng khác. Đó là sự giản dị, cô động tối
đa. Trong đời, Thanh Tùng được cử đi nước ngoài duy nhất một lần,nhưng lại một
chuyến đi sang nhất. Đó là chuyến đi Hy Lạp cùng với Anh Ngọc. Hành trình của họ
hoàn toàn diễn ra trên một chiếc tàu thủy hạng nhất cập bến nhiều quốc gia với
nhiệm vụ duy nhất là đọc thơ và tiếp xúc với công chúng".
May mắn là các xứ ấy không ai biết tiếng Việt
nên hai chàng thi nô tha hồ mà vung tay múa mép kiểu như đám trình diễn thơ ở
Văn Miếu dịp rằm tháng giêng hàng năm, như Nguyễn Quang Thiều, Mai Văn Phấn đọc
thơ vô lối của mình! Đưa thơ vô lối sặc mùi mắm tôm thủm ra đọc[r nước
ngoài là làm nhục quốc thể không biết chừng nào!
Đi
nước ngoài về ai chả lấy lại múi giờ. Đấy là việc bình thường, nhưng Thanh Tùng
có chủ ý gắn Tổ quốc vào. Đấy là kiểu viết thời chiến tranh cho báo dễ in, cho
có tính Đảng, tính nhân dân(!)"
"Đồng
hồ của tôi thay đổi đã mấy lần
Giờ
sắp được lấy lại múi giờ Tổ quốc"
Thời ấy, viết gì cũng phải có tí bom đạn, tí đảng
, tí chính phủ, tí công trường, nhà máy, hầm mỏ,tí hợp tác xã nông nghiệp, hợp
tác xã mua bán, tí thanh, tí lúa tập thể...
Người dân tộc cũng phải thế. Đói rách, không
có ngô, khoai ăn nhưng:"Người Mèo ơn Đảng! Ơn Đảng, ơn Chính phủ dắt tay
ta làm lại cuộc đời (Lời bài hát)
Phép làm thơ trong Nam gọi là "ba xạo",
ở Trung nói là "xỏ lá" ngoài Bắc cho "quỷ quyệt"
Ngưu tầm ngưu, mã tầm mã, hai anh sáo, dở, nhạt, nhắng, giả, sến ...tung hê cho nhau. Hữu
Thỉnh tán tiếp:" Thật là một giọng thơ biến hóa khác hẳn. Bao nhiêu người
đi nước ngoài trong đó có nhiều nhà thơ nữa thường vặn kim đồng hồ lấy lại đúng
múi giờ mỗi lần đến quốc gia khác Nhưng chưa ai, chưa có nhà thơ nào đưa được
chi tiết ấy vào thơ. Một chi tiết nhỏ, thậm chí rất nhỏ, với Thanh Tùng lại nói
lên tình cảm lớn. Tình yêu Tổ quốc cụ thể biết bao nhiêu."
Thanh Tùng làm thợ ngõa, xây nhà lắp ghép,
nên thơ ông cũng rất lặp ghép. Lắp ghép đến độ tạo thành tứ giả,vô hồn và sai
trong nhận thức tình cảm:
"Ngày
khai trường
Cha
mua cho con đủ thứ
Nhưng
cha quên mua cho con đôi nạng mới
Hai
năm qua từ khi con bị bom
Chiếc
nạng cũ chẳng cũng con lớn lên, cha ạ"
Hữu
Thỉnh tán tiếp: "Một câu chuyện bi thương, nếu phải viết bằng văn xuôi có
thể dựng nên một cái truyện ngắn và cũng phải tốn đến mấy trang giấy. Còn làm
thơ người non tay có thể phải vòng vèo qua bao nhiêu dẫn dụ, Thanh Tùng lược bỏ
hết, chỉ tập trung dựng nên một trục chính , giản dị,hàm súc, đụng đến tận cùng
đau đớn. Mà viết như không. Tài năng thực sự là ở đó..Bản năng óo sự mách bảo lạ
thường. Vì là người có trực cảm mạnh mẽ, viết về cái gì anh cũng đều tìm ra một
góc phát hiện độc đáo".
Đoạn trích vô lối trên của Thanh Tùng trên là
đoạn viết vô cùng giả tạo. Giả tứ, giả kinh tế,giả tình cảm ... vạn cái giả...Ngày
khai trường mua cho con đủ thứ phải nói ngày xưa thì nhà giàu, nay là đại gia,
quan chức to. Còn anh thợ hồ Thành Tùng ăn bữa mai chạy bữa hôm lấy đâu ra tiền
mà mua cho con đủ thứ (!). Người đọc biết ngay Thanh Tùng bốc phét!
"Nhưng
cha quên mua cho con đôi nạng mới".
Cha Thanh Tùng chắc làm bằng tượng gỗ? Một người con bị thương vì bom đi
nạng gỗ, bố mẹ, anh em, nội ngoại phải túc trực, chăm sóc để ý đôi nạng từng
li, từng tí hàng ngày có đâu bỏ quên không nhìn con hai năm để con lớn lên mà nạng
chẳng lớn:
"Hai
năm qua từ khi con bị bom
Chiếc
nạng cũ chẳng cũng con lớn lên, cha ạ"
Phét
lác! Hữu Thỉnh không trích dẫn không bình người ta không biết, nhưng Hữu Thỉnh
trích dẫn và bình thì người ta biết rõ ngay người viết đã giả dối, vờ vịt; người
bình cũng vờ vịt, giả dối. Hai người đều rất kém cỏi trong nhận thức tình cảm,
lý trí và lươn lẹo khi viết, khi sáng tác.
Thanh Tùng lao khổ, lăn lóc tận đáy xã hội làm
nghề bần hàn tay chân kiếm sống, nhưng không biết anh có học hành gì không mà
thấy anh viết như không có học, không từng lăn lộn bươn chải:
"Không
đứa trẻ nào không phải con của tôi
Tôi
gửi mọi nhà ấu yếm hộ"
(Trẻ
em)
Một người đi làm từ thiện cũng không bao giờ
nói hàm hồ như thế, còn người viết không được phép viết thế. Dù anh yêu thương
mọi đứa trẻ như con của mình, anh cũng không được nói thế, càng không đượcviết
thế. Viết thế gây ra nhiêu hiểu lầm trầm trọng. Hóa ra anh ngủ với rất nhiều
đàn bà với có một nhà đầy trẻ. Một nhà đầy trẻ " không đứa trẻ nào không
phải con của anh". Anh là một thằng hiếu dâm, cuồng dâm! Không còn có đạo
đức làm người, chỉ làm thú vật! Các ông bố thật sẽ đến giần cho anh tan xương!
Kiểu nói, kiểu viết như thế không ai gọi là thơ. Kiểu nói, kiểu viết này xúc phạm
không chỉ những bố mẹ đứa trẻ bị xúc phạm mà chính các cháu bị xúc phạm và xúc
phạm đến cả đến cộng đồng!
Chúng ta hãy nghe Hữu Thỉnh nhắm mắt tán bình:
"Chẳng hạn viết về trẻ em. Người ta thường nói muốn viết hay về trẻ em,
không chỉ thuộc mà phải hóa thân thành trẻ em. Thanh Tùng không làm theo lời khuyên đó. Trước sau anh sắm vai
người lớn, hơn nữa một người lớn đến tận đáy của phong trần . Anh viết về trẻ em nhưng lại dành cho người lớn. Chính vì
thế, anh cảm thấy trẻ em là nơi trú ngụ an toàn nhất. Anh thú nhận " Đến với
trẻ em tôi mới thật yên bình". Một câu cô đặc vừa là lới tự thú, vừa hạnh
phúc xót xa, vừa nói được cái thế giới trong sáng thiên thần của các em vừa nói
về những trận bão người, bão đời mà anh trải qua. Tâm trạng ấy, anh đẩy cảm xúc
lên:
"Không
đứa trẻ nào không phải con của tôi
Tôi
gửi mọi nhà âu yếm hộ"
(Trẻ
em)
Bình
và bốc thơm bạn lên mức ấy thi Biêlinxki hà phê bình lớn của Nga cũng chào
thua!
Thanh Tùng viết toàn thơ vô lối, tức là lược
bỏ trăm phần trăm vần điệu, lược bỏ cách nói một hay mười của dân gian. Cách viết
này không mới, trên thế giới và cha ông ta làm từ khi cùng loài người mới xuất
hiện trên trái đất. Sau đó cha ông ta phân ra loại có vần điệu, có đối có
đáp... là thơ, viết tự do là phú, tế, hịch, điếu, sớ, hát vui chơi, nói vui
chơi...
Thời hiện đại, nhất là các nước có ngôn ngữ
tiếng nói đa âm họ lại chuộng thơ không vần. Những nước ngôn ngữ đơn âm như
phương Đông cũng phát triển thể thơ này trở lại! Lợi thế của thơ không vần, câu
chữ chảy nhanh theo dòng suy nghĩ khỏi bị bế tắc khi nghĩ ngợi gieo vần, viết
nhanh, viết mạnh tải nhanh những suy tư của người viết nhưng lạm dụng nó, nội lực
thấp dẫn đến đơn điệu, khô khan, sơ sài nhất là những dân tộc ngôn ngữ đơn âm
(xỉ âm) như phương Đông viết thơ không vần dễ thất bại! Càng thất bại ở những
người trí tuệ thấp, văn hóa lùn, bản năng gốc hạn hẹp, ít học... sử dụng ngôn
ngữ kém:
"Mẹ
các con chẳng còn yêu cha
Các
con đã đi xa theo mẹ
Cha
cứ tưởng các con vừa mới ra chơi ngoài chợ
Cha
vẫn mở, các con ơi, đôi cánh cửa
Trong
cả ngày lẩn đêm
Và
giữa hai cánh cửa kia
Treo
trái tim cha trĩu nặng nỗi mong chờ"
Không có ai gọi đây là đoạn thơ. Nó là đoạn
văn ngắn, lủng củng, kể lể rất dở không để lại một tần số rung động nào cho độc
giả.
Thơ vô lối của Thanh Tùng cạn ý, yếu lời, lộ
hàng, tán gái:
"Ngày
ấy em đâu biết
Con
đường nào cũng dẫn đến em
Là
bàng nào cũng thành mảnh thơ tình
Tôi
viết vào, gió lại xóa đi ngay
Mảnh
hồn tôi run mãi ở trên cao"
Không
có tí gì triết lí, toàn triết lí giật lùi:
"Bây
giờ tôi đi giất lùi
Tình
yêu ở phía sau tôi"
Hay
kêu rên:
"Ôi
tình yêu như lưỡi câu tự nuốt
Rồi
tự mình cứ lơ lửng treo lên"
Vì sao Thanh Tùng được nổi trong văn học nhà
nước quản lý? Là nhờ "Thời hoa đỏ". Như đã nói ở trên, buổi ấy theo lời
tâm sự của nhà văn Nguyễn Đình Thi: "Mình phải đánh hai đế quốc to, mạnh
nên các Cụ không cho nhìn ngang, nhìn ngửa, cứ một đường hô to đi thẳng. Ai có
tí gì thì bị roi quất". Thời hoa đỏ là bài vô lối không có gì, chỉ có cái
dùng nhiều chữ "Đỏ": "Thời hoa đỏ", " Mỗi mùa hoa đỏ về", " Cánh
mỏng manh tan tác đỏ tươi", "Hoa
đặt vào lòng chúng ta một vệt đỏ", "Cái lặng im rực màu hoa đỏ",
"Em của thời hoa đỏ ngày xưa:...
Rồi Hải Phòng cũng được gọi gọi "Thành phố hoa phượng đỏ".
Cộng sản họ thích màu đỏ! Nga, Tau, Bắc Triều, Cu Ba, Việt Nam toàn màu
cờ đỏ!
Thơ vô lối Thanh Tùng không có
gì, Hữu Thỉnh đánh giá "Thanh Tùng là một nhà thơ hàng đầu trong lớp các
nhà thơ chống Mỹ". Đó là một nhận định không chính xác.
Thanh Tùng, Hữu Thỉnh, Thi Hoàng...đúng như thế này:
"Hòn đá bên đường thành
bại
Mỉm cười tay trắng đời
trai"
(Đỗ Hoàng)
Hà Nội, ngày 28 - 12 -
2019
Đ - H
DỊCH THƠ VIỆT RA THƠ
VIỆT
Thanh Tùng
Thời Hoa Đỏ (1)
Duới màu hoa như lửa cháy khát khao
Anh nắm tay em bớc dọc con đường vắng
Chỉ có tiếng ve sôi chắng cho trưa hè yên tỉnh
Chẳng chịu cho lòng ta yên
Anh mãi mê về một màu mây xa
Về cánh buồm bay qua ô cửa nhỏ
Về cái vẻ thần kỳ của ngày xưa
Em hát một câu thơ cũ
Cái say mê một thời thiêu nữ
Mỗi mùa hoa đỏ về
Hoa như mưa rơi rơi
Cánh mỏng manh tan tác đỏ tươi
Nhu máu ứa một thời trai trẻ
Hoa như mưa rơi rơi
Nhu ngày tháng xa ta dại khờ
Ta nhìn sâu vào trong mắt nhau
Mà thấy lòng đau xót
Trong câu thơ của em
Anh không có mặt
Câu thơ hát về một thời yêu đuơng tha thiết
Anh đâu buồn mà chỉ tiếc
Em không đi hết những ngày đắm say
Hoa cứ rơi ồn ào như tuổi trẻ
Không có ai có thể lạnh tanh
Hoa đặt vào lòng chúng ta một vệt đỏ
Như vết xước của trái tim
Sau bài hát rồi em lặng im
Cái lặng im rực màu hoa đỏ
Anh biết mình vô nghĩa đi bên em
Sau bài hát rồi em như thể
Em của thời hoa đỏ ngày xưa
Sau bài hát rồi anh cũng thế
Anh của thời trai trẻ ngày xa
(1)Bài in trên Tạp chí Thơ Năm 2006
Đỗ Hoàng dịch:
Thời
hoa đỏ
Duới
màu hoa lửa khát khao
Nắm
tay em để buớc vào đuờng êm.
Ve
sôi, trưa hạ bừng lên.
Cứ
như chẳng để lòng yên chút là
Anh
mê mãi màu mây xa
Cánh
buồm mỏng mảnh bay qua cửa phòng
Một
thời kỳ diệu, thần thông
Xin
em hát lại một dòng thơ xưa
Say
thời thiếu nữ mộng mơ
Mỗi
mùa hoa đỏ như mua rơi tràn
Chói
tuơi, cánh mỏng manh tan,
Như
là máu ứa các chàng trẻ trung
Hoa
như mua rơi khôn cùng
Giống
ta ngaỳ ấy, mơ mồng dại khôn!
Nhìn
sâu vào cõi tâm hồn
Thơ
em câu chữ vẫn còn quặn đau
Tiếc
không có mặt anh đâu
Thời
yêu tha thiết với câu hẹn thề
Không
buồn, chỉ tiếc gớm ghê
Em
chưa đi hết, ngày về đắm say.
Hoa
như tuổi trẻ những ngày
Không
ai có thể thơ ngây lạnh lùng
Hoa
in một vết thuơng lòng
Xuớc
ra ứa máu đang còn trong tim
Sau
bài hát, em thể tin
Em
thời hoa đỏ của nghìn màu hoa.
Sau
bài hát anh thế ra.
Anh
thời trai trẻ như là ngày xa!
Hà
Nội ngày 2 – 9 - 2006
(1) Bài in trên báo Văn nghệ số 46, thứ bảy ngày 16 - 11- 2019