THU TỨ NỊNH THỐI HỮU THỈNH
TRƠ TRẼN, HÈN HẠ , VÔ LIÊM SỈ!
Đỗ Hoàng
Thu Tứ viết về thơ Hữu Thỉnh với một giọng điệu
bợ đỡ, nịnh thối một cách trơ trẽn, hèn hạ rất vô liêm sĩ! Vì muốn làm cho Hữu
Thỉnh và cấp trên Hữu Thỉnh "thỏa lòng bóng" (vừa lòng)
"Vì
sao lần này lại xảy ra việc nông dân hóa chiến sĩ? Bởi sau khi nhà nước Việt
Nam Dân chủ Cộng hòa lãnh đạo nhân dân đánh cho giặc Pháp đại bại, phải rút khỏi
nước ta, thì ở Miền Nam dưới sự bảo trợ của
siêu cường Mỹ một thiểu số ngang nhiên dựng lên một “nước”, chia hai Tổ quốc!
Thế là làm giặc. Giặc thì phải đánh. Miền Nam nổi dậy, Miền Bắc chi viện Miền
Nam đánh ngụy, đánh cả Mỹ và chư hầu khi chúng kéo vào cứu ngụy. Phải trái
là hết sức rõ ràng, nên trong hàng hàng lớp lớp thanh niên ngày đêm xẻ dọc Trường
Sơn đã không có chút nghĩ ngợi phân vân nào hết về ý nghĩa của việc mình làm,
mà chỉ có vô cùng tha thiết một niềm nhớ quê. Người nông dân xa làng mạc ruộng
đồng, nỗi ấy nói sao cho xiết! Chiến sĩ ở tiền tuyến mà đau đáu nhớ hậu phương,
như thế có hại cho tinh thần chiến đấu chăng? Không hề, bởi chiến sĩ biết người
ở hậu phương đặt hy vọng ở mình và đang nỗ lực tối đa để giúp mình chiến đấu
mau thắng lợi. Họ nhận thức chỉ có một con đường về quê duy nhất, là “Đường tới
Thành phố”! (Thu Tứ)
Viết thế, Cộng sản viết thì được. Nhưng hiện
nay Cộng sản họ không viết thế và không nghĩ thế về những kẻ ở bên kia chiến tuyến. Người ta đang xem
xét lại những người lính hy sinh ở Hoàng Sa năm 1974 như Ngụy Văn Thà để tuyên
dương công trạng chống giặc ngoại xâm. Nhiều nhà thơ ở quốc nội làm thơ ca ngợi
Ngụy Văn Thà như một anh hùng chống ngoại xâm (Trần Mạnh Hảo)! Những từ ngụy quân,
ngụy quyền, giặc...không còn áp đặt cho đồng bào miền Nam tạm chiếm nữa!
Có người còn nêu ý kiến mời những người lính,
con cháu bên kia chiến tuyến trước đây trở về cùng nhân dân chống giặc Tàu!
Còn Thu Tứ chửi rủa cái "nước"
mình, chửi rủa cha ông mình cạn tàu ráo máng để bà con cô bác khai trừ ra khỏi
dòng họ mà không biết cái "nước" đó Thu Tứ được du học, được nghề
sang, được ăn trên ngồi trốc...được tự do nịnh Cộng sản, vái từ dưới đít vái
lên! Không khác gì đám bồi bút trong nước nâng bi Hữu Thỉnh để kiếm mấy cái chức
tước, danh hiệu còm! Vô liêm sỉ!
Cái "nước"mà Thu Tứ chửi rủa nó có
kinh tế rất khá, có giáo dục rất cừ, có "dân chủ "tương đối được. Còn
cái "nác - nước" Thu Tứ nịnh, Thu Tứ với cái lý lịch bất hảo như vậy
thì chỉ có bốc đất ngoài đồng suốt ngày, ăn cứt chó mà sống!
Hữu Thỉnh suốt đời chỉ là anh tuyên truyền
cấp tiểu đội, hô hào xung phong "mẹ
tập con đi, đảng dạy con đi, bác chỉ lối con đi" không hơn, không kém.:
"Bỏ
lại đằng sau bao trận đánh
Kịp vào thành phố sáng tên
Người
Độc lập theo tăng vào cổng
chính
Cờ treo trên đỉnh nước non
ơi!"
(Hữu Thỉnh)
Viết sáo mòn, rỗng tuếch, khẩu hiệu còn hơn khẩu
hiệu. Mấy ông tuyên huấn xóm, tuyên huấn xã đến bò sát đất mà học tập nâng cao
tầm nhìn tư tưởng Mác Lênin (!)
Viết khổ thơ 4 câu mà lặp ngược lặp xuôi. Câu
2 có "kịp vào thành phố",
câu 3 lại "tăng vào cổng
chính". "Vào" chi mà nhiều rứa?
Thế mà Thu Tứ bốc thơm:
"Có
biết bao nhiêu là thơ hay về người chiến sĩ Quân đội Nhân dân Việt Nam! Rất nhiều
bài được làm bởi những người trực tiếp chỉ huy họ. Trong số cán bộ làm thơ về
chiến sĩ, nổi bật nhất là Chính Hữu và Hữu Thỉnh. Có thể xem Hữu Thỉnh như
“Chính Hữu thời đánh Mỹ”."
Thu Tứ không hiểu biết gì về thơ chống Pháp,
chống Mĩ. Chỉ xét về mặt tuyên truyền cổ động để bộ đội đánh nhau, Chính Hữu
chưa phải là "number one" - số 1. Chính Hữu còn xếp sau xa Tố Hữu,
Nguyễn Đình Thi, Trần Hữu Thung, Hoàng Trung Thung...Còn thi bá Quang Dũng, Hữu
Loan... thì Chính Hữu đứng ngoài cửa mà
nhìn! Nói Hữu Thỉnh là Chính Hữu thời đánh Mĩ là cách nói hồ đồ, xúc phạm Chính
Hữu!. Chính Hữu cũng là tuyên truyền, tuyên huấn nhưng Hữu Thỉnh làm sao sờ tới:
"Chính
Hữu rất giỏi thổi kèn
Cho
các đồng chí xông lên diệt thù'"
(810
Văn sĩ Việt - Đỗ Hoàng)
Nhưng vẫn đẳng cấp rất nhiều bậc trên Hữu Thỉnh:
..."Chúng
mang bom nghìn cân
Giội
lên trang giấy
Mỏng
như một ánh trăng ngần
Hiền
như lá mọc mùa xuân
Ôi
từng trang giấy
Trong
lòng anh, đập khẽ, đêm nay
như
bàn tay vẫy
như
một bàn tay ròng ròng máu chảy!
Nếu
em sống lại
Anh
đi một nghìn đêm
Để
giành lấy cho em
Một
ngày không sợ hãi..."
(Chính Hữu)
Hữu
Thỉnh thì:
"Hữu
Thỉnh chẳng có bài nào
Xe
tăng húc đổ tường rào thi ca"
(810
Văn sĩ Việt - Đỗ Hoàng)
"Bồ
quân bên suối chín vàng
Biến
thành chợ của họ hàng nhà chim
Đầu
têu tu hú chạy lên
Sẻ
con giục mẹ bỏ quên cả giày
Chào
mào chưa nếm đã say
Chim
sâu bận mọn nửa ngày mới sang
Anh
vũ mua bán đàng hoàng
Ăn
xong múa lượn cả làng cùng xem.."
(Hữu Thỉnh)
Thật thua cả vè của mụ nghèo xã viên hợp tác
xã!
Hữu Thỉnh không có bài thơ hay, câu thơ hay,
suốt đời tụng ca, gõ mõ, mang tứ chứng "Thi Y": sáo, dở, nhạt, nhắng...
Những bài đưa vào sách giáo khoa ép học sinh học
là những bài rất dở cả ý tứ, lập từ:
"Có
đám mây mùa hạ
Vắt
nửa mình sang thu"
"Vắt"
- từ dùng rất thô lậu!
Thu
Tứ tán :
Sang
thu
“Bỗng
nhận ra hương ổi
phả
vào trong gió se
sương
chùng chình qua ngõ
hình như thu đã về
sông
được lúc dềnh dàng
chim
bắt đầu vội vã
có
đám mây mùa hạ
vắt
nửa mình sang thu
vẫn còn bao nhiêu nắng
đã
vơi dần cơn mưa
sấm
cũng bớt bất ngờ
trên
hàng cây đứng tuổi”.
Thu nhiều thơ lắm, nhất là khi đang “tới”
hay “về”. Hương ổi, gió se, sương chùng chình, sông dềnh dàng, chim vội vã, mây
hai mùa, nắng vẫn còn, mưa đã vơi, sấm thi thoảng chịu báo trước, hàng cây
“tóc” ngày nào xanh um giờ bắt đầu xơ xác, ồ, cái cảm chớm thu của một người nó
tinh tế và kỹ càng sao!
Thu Tứ học sửa chữa máy bay, không biết gì thơ phú để mà
bình, phán! Lại khen thối bài
Thư mùa đông
...Gạo
thường lên sớm, thư thời chậm
Đài mở thâu đêm đỡ vắng hầm
Bao năm không thấy màu con gái
Vó ngựa nghe nhầm tiếng guốc em... "
"Vó
ngựa nghe nhầm tiếng guốc em... " Nghe quá tởm lợm.
Không
có sự liên tưởng, so sánh nào cổ quái như thế này! Ngày xưa đi lính thiếu gái :
"Tam
niên tại ngũ
Trư
lão như tiên"
(Ba
năm chui lủi chiến trường
Gặp
con lợn nái tưởng nường tiên sa - Đỗ Hoàng dịch) người cũng không mường tượng
tiếng guốc người nầm với vó ngựa (!)
Thu
Tứ không hiểu văn chương thơ phú, bình rất ngô ngê, kệch cởm:
“Sáng
ra thêm bạc…”… Người mà như núi thì qua chả mấy mùa đông đầu sẽ trắng như bông!
Ơ mà núi ở đây trùng trùng, sao “rét” đến thế nhỉ, chắc do không trao đổi được
với nhau. Người thì tuy rất xa người nhưng nhờ thư xuống thư lên nên tóc tai chẳng
đến nỗi nào, tệ nhất cũng chỉ tai thi thoảng nghe nhầm vó ngựa thành “tiếng guốc
em”… Năm ấy hình như Hữu Thỉnh đã xuất ngũ, chuyển sang công tác văn nghệ. Vậy
đây là nhà thơ đi thăm chiến sĩ, rồi nhập luôn vào vai chiến sĩ mà làm thơ. Còn
việc nào tự nhiên hơn cho ông! Đã xẻ dọc Trường Sơn, giờ lên nằm trong những hầm
xây bên vách đá sừng sững của biên cương phía bắc để nếm thứ mùi khác của núi
non Tổ quốc, trải nghiệm thế này là hơi khó bì." ( Hết trích)
Bài
Bầu trời trên giàn mướp
Là
bài ăn cắp tứ của Nguyễn Duy "Bầu trời vuông" nổi tiếng trong chiến
trương năm 1970 - 1972. Hữu Thỉnh là
"chuyên gia" chuyên mô phỏng tứ của người khác nhưng viết rất dở. Bầu
trời trên giàn mướp là một điển hinh!
“thu
ơi thu ta biết nói thế nào
sương mỏng thế ai mà bình tĩnh được
hứa hẹn bao nhiêu bầu trời trên giàn mướp /
lúc
hoa vàng thu mới chập chờn thu
ngỡ
như không phải vất vả chi nhiều
sau tiếng sấm thế là trời mới mẻ
quả
đã buông thủng thẳng xuống bờ ao
ta
cứ tưởng đất sinh sôi thật dễ
trời
thu xanh và hoa mướp thu vàng
thưa mẹ
những
năm bom nơi con không thể có
bến
phà con đã qua, rừng già con đã ở
gặp vạt lúa nương con cũng viết thư về
nên
không dám
dù
một giây xao nhãng
bầu
trời này từng dẫn dắt con đi”.
Tại
sao “sương mỏng thế” lại gây xôn xao? Chắc vì đó là một tín hiệu báo thu đã về,
tuy còn “chập chờn”. Được cái, cái sương rất mong manh ấy không vội trôi đi đâu
mất, mà “chùng chình qua ngõ” (xem bài “Sang thu”), ta được tha hồ ngắm nó để
tiếp tục... mất bình tĩnh, chỉ biết kêu “thu ơi thu” mà không “biết nói thế
nào”! Tất nhiên ngoài “bầu trời trên giàn mướp”, quê hương Việt Nam còn vô số bầu
trời khác. Cùng một Quê mà có biết bao nhiêu là quê! Trong “những năm bom” vô
cùng ác liệt ấy, biết bao nhiêu “con” đã qua những bến phà đỏ lửa, đã nằm trong
rừng già thâm u mà không “một giây xao nhãng / bầu trời (...) từng dẫn dắt
(mình) đi”...(Thu Tứ)
Một bài kể lể, nhạt nhẽo không một ý tứ nào
rung động lòng người. Cách nịnh của Thu Tứ là cách nịnh của một kể vô học,
không biết gì văn chương!
Nhờ nịnh một cách thối tha, vô liêm sỉ này
Thu Tứ được Hữu Thỉnh cho 3, 4 nghìn đô la mời mới quốc nội dự đại hội hòa hợp
dân tộc sang hơn Nguyễn Cao Kỳ, Phó Tổng thống về nước cũ!
"Thu
Tứ ngoái về nịnh Hữu Thinh
Văn
thơ ca tụng thôi hôi rình
Tợp
bia hải ngoại mà mang nhục,
Xực
sắn quê nhà mới thấy vinh
...
Vượt
biên quyết liệt lìa quê tổ
Tâm
địa còn hơn lũ hắc tinh!
(Vịnh
Thu Tứ - Đỗ Hoàng)