Đỗ Hoàng
Thứ Bảy, 29 tháng 4, 2023
Tâm sự người lính - Đỗ Hoàng
Đỗ Hoàng dich BÌNH NGÔ ĐẠI CÁO
BÌNH NGÔ ĐẠI CÁO
Nguyên văn:
平吳大告
代天行化皇上若曰。
蓋聞:
仁義之舉,要在安民,
弔伐之師莫先去暴。
惟,我大越之國,
實為文獻之邦。
山川之封域既殊,
南北之風俗亦異。
自趙丁李陳之肇造我國,
與漢唐宋元而各帝一方。
雖強弱時有不同
而豪傑世未常乏。
故劉龔貪功以取敗,
而趙禼好大以促亡。
唆都既擒於鹹子關,
烏馬又殪於白藤海。
嵇諸往古,
厥有明徵。
頃因胡政之煩苛。
至使人心之怨叛。
狂明伺隙,因以毒我民;
惡黨懷奸,竟以賣我國。
焮蒼生於虐焰,
陷赤子於禍坑。
欺天罔民,詭計蓋千萬狀;
連兵結釁稔惡殆二十年。
敗義傷仁,乾坤幾乎欲息;
重科厚歛,山澤靡有孑遺。
開金場塞冒嵐瘴而斧山淘沙,
採明珠則觸蛟龍而緪腰汆海。
擾民設玄鹿之陷阱,
殄物織翠禽之網羅。
昆虫草木皆不得以遂其生,
鰥寡顛連俱不獲以安其所。
浚生靈之血以潤桀黠之吻牙;
極土木之功以崇公私之廨宇。
州里之征徭重困,
閭閻之杼柚皆空。
決東海之水不足以濯其污,
罄南山之竹不足以書其惡。
神民之所共憤,
天地之所不容。
予:
奮跡藍山,
棲身荒野。
念世讎豈可共戴,
誓逆賊難與俱生。
痛心疾首者垂十餘年,
嘗膽臥薪者蓋非一日。
發憤忘食,每研覃韜略之書,
即古驗今,細推究興亡之理。
圖回之志,
寤寐不忘。
當義旗初起之時,
正賊勢方張之日。
奈以:
人才秋葉,
俊傑晨星。
奔走先後者既乏其人,
謀謨帷幄者又寡其助。
特以救民之念,每鬱鬱而欲東;
故於待賢之車,常汲汲已虛左。
然其:
得人之效茫若望洋,
由己之誠甚於拯溺。
憤兇徒之未滅,
念國步之遭迍。
靈山之食盡兼旬,
瑰縣之眾無一旅。
蓋天欲困我以降厥任,
故與益勵志以濟于難。
揭竿為旗,氓隸之徒四集
投醪饗士,父子之兵一心。
以弱制彊,或攻人之不備;
以寡敵眾常設伏以出奇。
卒能:
以大義而勝兇殘,
以至仁而易彊暴。
蒲藤之霆驅電掣,
茶麟之竹破灰飛。
士氣以之益增,
軍聲以之大振。
陳智山壽聞風而;褫魄,
李安方政假息以偷生。
乘勝長驅,西京既為我有;
選兵進取,東都盡復舊疆。
寧橋之血成川,流腥萬里;
窣洞之屍積野,遺臭千年。
陳洽賊之腹心,既梟其首;
李亮賊之奸蠹,又暴厥屍。
王通理亂而焚者益焚,
馬瑛救鬥而怒者益怒。
彼智窮而力盡,束手待亡;
我謀伐而心攻,不戰自屈。
謂彼必易心而改慮,
豈意復作孽以速辜。
執一己之見以嫁禍於他人,
貪一時之功以貽笑於天下。
遂靈宣德之狡童,黷兵無厭;
仍命晟昇之懦將,以油救焚。
丁未九月柳昇遂引兵猶邱溫而進,
本年十月木晟又分途自雲南而來。
予前既選兵塞險以摧其鋒,
予後再調兵截路以斷其食。
本月十八日柳昇為我軍所攻,計墜於支稜之野;
本月二十日柳昇又為我軍所敗,身死於馬鞍之山。
二十五日保定伯梁銘陣陷而喪軀,
二十八日尚書李慶計窮而刎首。
我遂迎刃而解,
彼自倒戈相攻。
繼而四面添兵以包圍,
期以十月中旬而殄滅。
爰選貔貅之士,
申命爪牙之臣。
飲象而河水乾,
磨刀而山石鈌。
一鼓而鯨刳鱷斷,
再鼓而鳥散麇驚。
決潰蟻於崩堤,
振剛風於稿葉。
都督崔聚膝行而送款,
尚書黃福面縛以就擒。
僵屍塞諒江諒山之途,
戰血赤昌江平灘之水。
風雲為之變色,
日月慘以無光。
其雲南兵為我軍所扼於梨花,自恫疑虛喝而先以破腑;
其沐晟眾聞昇軍所敗於芹站,遂躪藉奔潰而僅得脫身。
冷溝之血杵漂,江水為之嗚咽;
丹舍之屍山積,野草為之殷紅。
兩路救兵既不旋踵而俱敗,
各城窮寇亦將解甲以出降。
賊首成擒,彼既掉餓虎乞憐之尾;
神武不殺,予亦體上帝孝生之心。
參將方政,內官馬騏,先給艦五百餘艘,既渡海而猶且魂飛魄散;
總兵王通,參政馬瑛,又給馬數千餘匹,已還國而益自股慄心驚。
彼既畏死貪生,而修好有誠;
予以全軍為上,而欲民之得息。
非惟謀計之極其深遠,
蓋亦古今之所未見聞。
社稷以之奠安,
山川以之改觀。
乾坤既否而復泰,
日月既晦而復明。
于以開萬世太平之基,
于以雪天地無窮之恥。
是由天地祖宗之靈有,
以默相陰佑而致然也!
於戲!
一戎大定,
迄成無兢之功;
四海永清,
誕布維新之誥。
播告遐邇,
咸使聞知。
阮廌執筆
! Phiên âm Hán Việt Bản
dịch
PHỔ BIẾN RỘNG VIỆC ĐÁNH TAN GIẶC NGÔ
Đại thiên hành hóa hoàng thượng nhược viết:
Cái văn:
Nhân nghĩa chi cử, yếu tại an dân,
Điếu phạt chi sư, mạc tiên khử bạo.
Duy ngã Đại Việt chi quốc,
Thực vi văn hiến chi bang.
Sơn xuyên chi phong vực ký thù,
Nam bắc chi phong tục diệc dị.
Tự Triệu Đinh Lý Trần chi triệu tạo ngã quốc,[1]
Dữ Hán Đường Tống Nguyên nhi các đế nhất phương.
Tuy cường nhược thì hữu bất đồng,
Nhi hào kiệt thế vị thường phạp.
Cố Lưu Cung tham công dĩ thủ bại,
Nhi Triệu Tiết hiếu đại dĩ xúc vong.
Toa Đô ký cầm ư Hàm Tử quan,
Ô Mã hựu ế ư Bạch Đằng hải.[2]
Kê chư vãng cổ,
Quyết hữu minh trưng.
Khoảnh nhân Hồ chính chi phiền hà,
Trí sử nhân tâm chi oán bạn.
Cuồng Minh tứ khích, nhân dĩ độc ngã dân;
Nguỵ đảng hoài gian, cánh dĩ mãi ngã quốc.
Hân thương sinh ư ngược diệm,
Hãm xích tử ư họa khanh.
Khi thiên võng dân, quỷ kế cái thiên vạn trạng;
Liên binh kết hấn, nẫm ác đãi nhị thập niên.
Bại nghĩa thương nhân, càn khôn ky hồ dục tức;
Trọng khoa hậu liễm, sơn trạch mỹ hữu kiết di.
Khai kim trường, tắc mạo lam chướng nhi phủ sơn đào
sa,
Thái minh châu, tắc xúc giao long nhi hoàn yêu thộn hải.
Nhiễu dân thiết huyền lộc chi hãm tịnh,
Điễn vật chức thúy cầm chi võng la.
Côn trùng thảo mộc giai bất đắc dĩ toại kỳ sinh,
Quan quả điên liên câu bất hoạch dĩ an kỳ sở.
Tuấn sinh linh chi huyết dĩ nhuận kiệt hiệt chi vẫn
nha;
Cực thổ mộc chi công dĩ sùng công tư chi giải vũ.
Châu lý chi chinh dao trọng khốn,
Lư diêm chi trữ trục giai không.
Quyết Đông Hải chi thủy bất túc dĩ trạc kỳ ô,
Khánh Nam Sơn chi trúc bất túc dĩ thư kỳ ác.
Thần dân chi sở cộng phẫn,
Thiên địa chi sở bất dung.
Dư:
Phấn tích Lam Sơn,
Thê thân hoang dã.
Niệm thế thù khởi khả cộng đái,
Thệ nghịch tặc nan dữ câu sinh.
Thống tâm tật thủ giả thùy thập dư niên,
Thường đảm ngọa tân giả cái phi nhất nhật.
Phát phẫn vong thực, mỗi nghiên đàm thao lược chi thư,
Tức cổ nghiệm kim, tế suy cứu hưng vong chi lý.
Đồ hồi chi chí
Ngộ mị bất vong.
Đương nghĩa kỳ sơ khởi chi thì,
Chính tặc thế phương trương chi nhật.
Nại dĩ:
Nhân tài thu diệp,
Tuấn kiệt thần tinh.
Bôn tẩu tiền hậu giả ký phạp kỳ nhân,
Mưu mô duy ác giả hựu quả kỳ trợ.
Đặc dĩ cứu dân chi niệm, mỗi uất uất nhi dục đông;
Cố ư đãi hiền chi xa, thường cấp cấp dĩ hư tả.
Nhiên kỳ:
Đắc nhân chi hiệu mang nhược vọng dương,
Do kỉ chi thành thậm ư chửng nịch.
Phẫn hung đồ chi vị diệt,
Niệm quốc bộ chi tao truân.
Linh Sơn chi thực tận kiêm tuần,
Khôi Huyện chi chúng vô nhất lữ.
Cái thiên dục khốn ngã dĩ giáng quyết nhiệm,
Cố dữ ích lệ chí dĩ tế vu nan.
Yết can vi kỳ, manh lệ chi đồ tứ tập;
Đầu giao hưởng sĩ, phụ tử chi binh nhất tâm.
Dĩ nhược chế cường, hoặc công nhân chi bất bị;
Dĩ quả địch chúng, thường thiết phục dĩ xuất kỳ.
Tốt năng:
Dĩ đại nghĩa nhi thắng hung tàn,
Dĩ chí nhân nhi dịch cường bạo.
Bồ Đằng chi đình khu điện xế,
Trà Lân chi trúc phá khôi phi.
Sĩ khí dĩ chi ích tăng,
Quân thanh dĩ chi đại chấn.
Trần Trí, Sơn Thọ văn phong nhi sỉ phách,
Lý An, Phương Chính giả tức dĩ thâu sinh.
Thừa thắng trường khu, Tây Kinh ký vị ngã hữu;
Tuyển binh tiến thủ, Đông Đô tận phục cựu cương.
Ninh Kiều chi huyết thành xuyên, lưu tinh vạn lý;
Tốt Động chi thi tích dã, di xú thiên niên.
Trần Hiệp tặc chi phúc tâm, ký kiêu kỳ thủ;
Lý Lượng tặc chi gian đố, hựu bạo quyết thi.
Vương Thông lý loạn nhi phần giả ích phần,
Mã Anh cứu đấu nhi nộ giả ích nộ.
Bỉ trí cùng nhi lực tận, thúc thủ đãi vong;
Ngã mưu phạt nhi tâm công, bất chiến tự khuất.
Vị bỉ tất dị tâm nhi cải lự,
Khởi ý phục tác nghiệt dĩ tốc cô.
Chấp nhất kỷ chi kiến, dĩ giá họa ư tha nhân,
Tham nhất thì chi công, dĩ di tiếu ư thiên hạ.
Toại linh Tuyên Đức chi giảo đồng, độc binh vô yếm;
Nhưng mệnh Thạnh Thăng chi nọa tướng, dĩ du cứu phần.
Đinh vị cửu nguyệt Liễu Thăng toại dẫn binh do Khâu Ôn
nhi tiến,
Bản niên thập nguyệt Mộc Thạnh hựu phân đồ tự Vân Nam
nhi lai.
Dư tiền ký tuyển binh tái hiểm dĩ tồi kỳ phong,
Dư hậu tái điều binh tiệt lộ dĩ đoạn kỳ thực.
Bản nguyệt thập bát nhật Liễu Thăng vị ngã quân sở
công, kế trụy ư Chi Lăng chi dã;
Bản nguyệt nhị thập nhật Liễu Thăng hựu vị ngã quân sở
bại, thân tử ư Mã Yên chi sơn.
Nhị thập ngũ nhật Bảo Định bá Lương Minh trận hãm nhi
táng khu,
Nhị thập bát nhật Thượng thư Lý Khánh kế cùng nhi vẫn
thủ.
Ngã toại nghênh nhận nhi giải,
Bỉ tự đảo qua tương công.
Kế nhi tứ diện thiêm binh dĩ bao vi,
Kỳ dĩ thập nguyệt trung tuần nhi điễn diệt.
Viên tuyển tỳ hưu chi sĩ,
Thân mệnh trảo nha chi thần.
Ẩm tượng nhi hà thủy càn,
Ma đao nhi sơn thạch khuyết.
Nhất cổ nhi kình khô ngạc đoạn,
Tái cổ nhi điểu tán quân kinh.
Quyết hội nghĩ ư băng đê,
Chấn cương phong ư cảo diệp.
Đô đốc Thôi Tụ tất hành nhi tống khoản,
Thượng thư Hoàng Phúc diện phược dĩ tựu cầm.
Cương thi tái Lạng Giang, Lạng Sơn chi đồ,
Chiến huyết xích Xương Giang, Bình Than chi thủy.
Phong vân vị chi biến sắc,
Nhật nguyệt thảm dĩ vô quang.
Kỳ Vân Nam binh vị ngã quân sở ách ư Lê Hoa, tự đỗng nghi
hư hạt nhi tiên dĩ phá phủ;
Kỳ Mộc Thạnh chúng văn Liễu Thăng đại bại ư Cần Trạm, toại
lận tạ bôn hội nhi cận đắc thoát thân.
Lãnh Câu chi huyết chử phiêu, giang thủy vị chi ô yết;
Đan Xá chi thi sơn tích, dã thảo vị chi ân hồng.
Lưỡng lộ cứu binh, ký bất toàn chủng nhi câu bại,
Các thành cùng khấu, diệc tương giải giáp dĩ xuất hàng.
Tặc thủ thành cầm, bỉ ký trạo ngạ hổ khất liên chi vĩ;
Thần võ bất sát, dư diệc thể thượng đế hiếu sinh chi tâm.
Tham tướng Phương Chính, Nội quan Mã Kỳ, tiên cấp hạm ngũ
bách dư sưu, ký độ hải nhi do thả hồn phi phách tán;
Tổng binh Vương Thông, Tham chính Mã Anh, hựu cấp mã sổ
thiên dư thất, dĩ hoàn quốc nhi ích tự cổ lật tâm kinh.
Bỉ ký uý tử tham sinh, nhi tu hảo hữu thành;
Dư dĩ toàn quân vi thượng, nhi dục dân chi đắc tức.
Phi duy mưu kế chi cực kỳ thâm viễn,
Cái diệc cổ kim chi sở vị kiến văn.
Xã tắc dĩ chi điện an,
Sơn xuyên dĩ chi cải quán.
Càn khôn ký bĩ nhi phục thái,
Nhật nguyệt ký hối nhi phục minh.
Vu dĩ khai vạn thế thái bình chi cơ,
Vu dĩ tuyết thiên cổ vô cùng chi sỉ.
Thị do thiên địa tổ tông chi linh, hữu dĩ mặc tương âm
hựu, nhi trí nhiên dã.
Ô hô!
Nhất nhung đại định,
ngật thành vô cạnh chi công;
Tứ hải vĩnh thanh,
đản bố duy tân chi cáo.
Bá cáo hà nhĩ,
Hàm sử văn tri.
Nguyễn Trãi chấp bút
Đỗ Hoàng dịch
VUA THAY TRỜI CÔNG BỐ RỘNG VIỆC THẮNG GIẶC NGÔ
Nghe rộng:
Việc nhân
nghĩa cốt yên dân
Quân điếu phạt
trước trừ ác!
Như Đại Việt ta là một nước.
Quốc gia có
văn hiến rõ ràng !
Cương vực
núi sống đẹp lạ.
Nam, Bắc tập
tục khác nhau.
Từ Triệu,
Đinh, Lý, Trần… đã sớm lập nên nước.
Cùng Hán, Đường,
Tống ,Nguyên…làm đế một phương.
Dù mạnh yếu
không như nhau
Nhưng người
tài giỏi không thiếu.
Lưu Cung
tham chiến công nên thất bại,
Triệu Tiết
thích đánh lớn bị diệt vong.
Cửa nguyên
văn:Hàm Tử bắt sống Toa Đô,
Biển Bạch Đằng
giết ngay Ô Mã!
Việc xưa căn
cớ,
Minh chứng
rõ ràng!
Khoảnh khắc
chính trị nhà Hồ rối ren
Khiến lòng
dân rất oán hận.
Quân Minh
điên cuồng hạ độc dân ta.
Bọn ngụy đảng
theo gian tà bán nước ta!
Nướng dân
trên lửa hung tàn,
Vùi con đỏ hầm
lò tai vạ!
Khinh trời,
trói dân, mẹo quỷ muôn hình vạn trạng!
Lập binh, kết
ác đã hai mươi năm.
Coi rẻ tình
người, càn khôn xáo trộn!
Thuế khóa nặng
nề, nhà núi xác xơ.
Kẻ bị dồn xuống
biển còng lưng mò ngọc, sợ hết hồn cá nghéo, thuồng luồng.
Người bị đưa
vào núi tìm vàng lọc cát, khiếp gặp rừng sâu, nước dữ.
Chốn chốn lưới
giăng, bẫy dò chím vét vơ sản vật.
Nơi nơi cài
bẫy, nhiễu dân còm, bắt hươu đen, thu vén hết
Tàn hại cả
giống côn trùng cây cỏ, chim cá đều bị bức hại
Kẻ góa bụa
càng thêm khốn cùng thảy nheo nhóc.
Bọn miệng
huyết, đứa răng xiên, ăn máu người không ngán
Động thố xây nhà, mai đắp đất, việc công phục dịch
ngán thay
Thuế nặng nề,
phu phen tạp dịch,
Tan tác cả
nghề canh cửi.
Dơ bẩn đến
nước Đông Hải không hết mùi ô uế.
Độc ác ghê,
trúc Nam Sơn chép sách không ghi hết cái ác
Thảo dân
muôn nơi căm phẫn
Trời đất nào
dung chúng!
Chính Ta :
Lam Sơn khởi nghĩa
Rừng rú dấu
thân
Niệm thù lớn
không đội trời chung
Lũ giặc dữ
quyết không cùng sống
Xé lòng long
óc, hơn mười năm
Nếm mật nằm
gai, đâu chỉ một ngày.
Tức giận,
quên ăn sách cầm quân đọc kỹ,
Suy ngẫm xưa
nay việc hưng phế luôn tính đến.
Trong cơn mê
luôn trằn trọc,
Băn khoăn nỗi
đồ hồi
Lúc cờ nghĩa
phất lên,
Chính thế
quân thù ngày đang mạnh.
Ngặt vì:
Người tài
như lá thu,
Tuấn kiệt
như sao sớm,
Việc bôn tẩu
thiếu kẻ đỡ đần,
Nơi màn trướng
hiếm người bàn bạc,
Tấm lòng cứu
nước, đăm đăm tiến về đông,
Cỗ xe cầu hiền,
chăm chắm dành phía tả.
Thế mà:
Trông hiền
tài, người càng vắng bóng, mịt mù như nhìn chốn bể khơi.
Bản thân, tự
tay, ta phải dốc lòng, vội vã hơn cứu người chết đuối.
Phần vì giận
quân thù ngang dọc,
Phần vì lo vận
nước khó khăn,
Khi Linh Sơn
lương thực không đủ một tuần,
Lúc Khôi Huyện
quân không một lữ.
Trời thử
lòng trao cho mệnh lớn
Ta gắng trí
khắc phục gian nan.
Nhân dân bốn
cõi một nhà, nêu cần trúc ngọn cờ phấp phới
Tướng sĩ một
lòng phụ tử, hòa nước sông chén rượu ngọt ngào.
Lấy yếu chống
mạnh, dàn trận bất kỳ,
Lấy ít địch
nhiều, dùng quân mai phục,
Trọn thay:
Dùng đại
nghĩa thắng hung tàn,
Lấy chí nhân
thay cường bạo.
Trận Bồ Đằng
sấm vang chớp giật,
Miền Trà Lân
trúc chẻ tro bay.
Sĩ khí đã
hăng
Quân thanh
càng mạnh.
Trần Trí,
Sơn Thọ nghe hơi mất vía,
Lý An,
Phương Chính, nín thở cầu thoát thân.
Thừa thắng
đuổi dài, Tây Kinh quân ta chiếm lại,
Tuyển binh
tiến đánh, Đông Đô đất cũ thu về.
Ninh Kiều
máu chảy thành sông, muôn đường ô uế
Tụy Động
thây chất đầy nội, nhơ để ngàn năm.
Phúc tâm
quân giặc Trần Hiệp đã phải bêu đầu
Mọt gian kẻ
thù Lý Lượng cũng đành bỏ mạng.
Vương Thông
gỡ thế nguy, mà đám lửa cháy lại càng cháy
Mã Anh cứu
trận đánh mà quân ta hăng lại càng hăng.
Bó tay để đợi
bại vong, giặc đã trí cùng lực kiệt,
Chẳng đánh
mà người chịu khuất, ta đây dùng trận lòng người.
Tưởng chúng
biết lẽ ăn năn nên đã thay lòng đổi dạ
Ngờ đâu vẫn
đương mưu tính lại còn chuốc tội gây oan.
Giữ ý kiến một
người, gieo vạ cho bao nhiêu kẻ khác,
Tham công
danh một khắc, để cười cho tất cả mọi người.
Bởi thế:
Tuyên Đức đứa
trẻ giảo hoạt thích đánh nhau không chán.
Đồ Thạnh,
Thăng nhút nhát đem dầu chữa cháy
Đinh mùi
tháng chín, Liễu Thăng đem binh từ Khâu Ôn kéo lại
Năm ấy tháng
mười, Mộc Thạnh chia đường từ Vân Nam tiến sang.
Ta trước đã
điều binh thủ hiểm, chặt mũi tiên phong
Sau lại sai
tướng chẹn đường, tuyệt nguồn lương thực
Ngày mười
tám , Liễu Thăng cùng quẩn trận hẽm Chi Lăng
Ngày hai
mươi, Liễu Thăng thân nát cụt đầu ở núi Mã Yên
Ngày hăm
lăm, bá tước Lương Minh đại bại tử vong
Ngày hăm
tám, thượng thư Lý Khánh cùng kế tự vẫn.
Thừa thắng
ta đưa kiếm dao tung phá
Bí nước giặc
quay mũi giáo đánh nhau
Lại thêm
quân bốn mặt vây thành
Hẹn đến giữa
tháng mười diệt giặc
Sĩ tốt kén
người mạnh mẽ
Bề tôi chọn
kẻ vuốt nanh
Gươm mài đá,
đá núi cũng mòn
Voi uống nước,
nước sông phải cạn.
Đánh một trận,
sạch không kình ngạc
Đánh hai trận
tan tác chim muông.
Cơn gió to
trút sạch lá khô,
Tổ kiến hổng
sụt toang đê vỡ.
Đô đốc Thôi
Tụ lê gối dâng tờ tạ tội,
Thượng thư
Hoàng Phúc trói tay để tự xin hàng.
Lạng Giang,
Lạng Sơn, thây chất đầy đường
Xương Giang,
Bình Than, máu trôi đỏ nước
Ghê gớm
thay! Sắc gió mây phải đổi,
Thảm đạm
thay! Ánh trời trăng phải mờ
Bị ta chặn ở
Lê Hoa, quân Vân Nam nghi ngờ khiếp vía mà vỡ mật!
Nghe Thăng
thua ở Cần Trạm, quân Mộc Thạnh xéo lên nhau chạy để thoát thân.
Suối Lãnh
Câu, máu chảy thành sông, nước sông nghẹn ngào tiếng khóc
Thành Đan
Xá, thây chất thành núi, cỏ nội đầm đìa máu đen.
Cứu binh hai
đạo tan tành, quay gót chẳng kịp,
Quân giặc
các thành khốn đốn, cởi giáp ra hàng
Tướng giặc bị
cầm tù, như hổ đói vẫy đuôi xin cứu mạng
Thần Vũ chẳng
giết hại, thể lòng trời ta mở đường hiếu sinh
Mã Kỳ,
Phương Chính, cấp cho năm trăm chiếc thuyền, ra đến biển mà vẫn hồn xiêu phách
lạc,
Vương Thông,
Mã Anh, phát cho vài nghìn cỗ ngựa, về đến nước mà vẫn tim đập chân run.
Họ đã tham sống
sợ chết mà hòa hiếu thực lòng
Ta lấy toàn
quân là hơn, để nhân dân nghỉ sức!
Chẳng những
mưu kế kì diệu
Cũng là chưa
thấy xưa nay
Xã tắc từ
đây vững bền
Giang sơn từ
đây đổi mới
Càn khôn đen
rồi lại rạng
Nhật nguyệt
tối rồi lại trong
Ngàn năm vết
nhục xóa sạch làu
Muôn thuở nền
thái bình vững chắc
Âu cũng nhờ
trời đất tổ tông linh thiêng đã lặng thầm phù trợ;
Ôi ơi!
Một đoàn
quân chiến thắng,
Lập công
oanh liệt ngàn năm
Bốn phương
biển cả thanh bình,
Ban chiếu
duy tân khắp chốn.
Xa gần quảng
bá,
Tất thảy đều
hay!
Nguyễn Trãi
chấp bút
Đỗ Hoàng dịch
tháng 4/2023
Đ - H