THƯ MÙA ĐÔNG CỦA HỮU THỈNH - NHẠT, KÉM - KHÔNG NÊN ĐƯAVÀO SÁCH
GIÁO KHOA
Đỗ Hoàng
Nguyên bản:
THƯ MÙA ĐÔNG
Hữu Thỉnh
Thư viết cho em nhòe nét mực
Phên thưa sương muối cứ bay vào
Núi rét đêm qua chừng mất ngủ
Sáng ra thêm bạc một nhành lau
Ở đây tuyết trắng trên chăn mỏng
Bếp đỏ cơm trưa núi vẫn mờ
Mực đóng thành băng trong ruột bút
Hơ hoài than đỏ chảy thành thư
Chắn gió cây run trong rễ tím
Hạt ngô gieo xuống cũng co mầm
Có hôm đồng đội đi công tác
Nhớ đấy, nhưng mà… thêm lớp chăn
Gà buốt gáy lười dăm tiếng khản
Ca bát khua cho đỡ bất thường
Núi giấu trong lòng trăm thứ quặng
Anh bòn không kiếm đủ rau ăn…
Gạo thường lên sớm, thư thời chậm
Đài mở thâu đêm đỡ vắng hầm
Bao năm không thấy màu con gái
Vó ngựa nghe nhầm tiếng guốc em…
Mây đến thường rủ anh mơ mộng
Biết vậy, khuya em đỏ ánh đèn
Ước gì có chút hương bồ kết
Cho đá mềm đi núi ấm lên.
Mèo Vạc 3.82
BÌNH GIẢNG
Bài thơ này
tác giả viết thay cho người chiến sĩ canh giữ biên cương, nơi đèo heo hút gió,
tuyết rơi đêm lạnh. Xưa nay các thi nhân mượn bút viết thay cho người khác giải
bày tấm lòng mình là chuyện bình thường
và có biết bao kiệt tác để lại cho hậu thế như: Chinh phụ ngâm (Đặng Trần Côn),
Đại lân tẩu ngôn hoài (Bạch Cư Dị), Thác lời trai phường nón (Nguyễn Du):
Đặng Trần Côn:
天 地 風 塵
紅 顏 多 屯
悠 悠 彼 蒼 兮 誰 造 因
Thiên địa phong trần
Hồng
nhan đa truân
Du du bỉ thương hề thuỳ tạo
nhân
(Cõi trời đất quay cuồng bụi
gió
Phận má hường thương khó bao
phiên
Cao xanh dằng dặc giăng miền
Ai làm nên nỗi đảo điên đất
bằng - Đỗ Hoàng dịch thơ)
Đại lân
tẩu ngôn hoài
Nhân sinh hà sự tâm vô định,
Túc tích như kim ý bất đồng.
Túc tích sầu thân bất đắc lão,
Như kim hận tác bạch đầu ông!
Túc tích như kim ý bất đồng.
Túc tích sầu thân bất đắc lão,
Như kim hận tác bạch đầu ông!
Thay ông hàng xóm tâm sự
Người
đời tâm tính không nhất định
Ngày
trước và nay ý chẳng đồng.
Ngày
trước buồn mình chưa được lão
Nay
thì đầu bạc hận làm ông!
(Đỗ
Hoàng dịch thơ)
Nguyễn
Du:
Tưởng rằng nói thế mà chơi.
Song le đã động lòng người lắm thay.
Trông trời trời cách tầng mây,
Trông trăng trăng hẹn đến ngày ba mươi.
Vô tình trăng cũng như người,
Một ta ta lại ngậm cười chuyện ta.
Song le đã động lòng người lắm thay.
Trông trời trời cách tầng mây,
Trông trăng trăng hẹn đến ngày ba mươi.
Vô tình trăng cũng như người,
Một ta ta lại ngậm cười chuyện ta.
(Thác lời trai phường nón)
Thư mùa
đông, Hữu Thỉnh cũng thay lời người lính gửi cho người yêu ở xa, nhưng người
lính canh giữ biên cương thời bình tuy có tuyết rơi, mực đóng băng trong ngòi
bút, thư lên chậm, rau hiếm, gái hiếm...là một hoàn cảnh không điển hình sự
gian khổ, khốn cùng của người lính.
..."Ở đây tuyết trắng trên chăn mỏng
Bếp đỏ cơm trưa núi vẫn mờ
Mực đóng thành băng trong ruột bút
Hơ hoài than đỏ chảy thành thư...."
Các bản Mèo,bản Thái, bản Tày... nào ở cực Bắc Tổ quốc mà chả thế.
Ngay điểm du lịch Sapa nổi tiếng cũng" Bếp đỏ cơm trưa núi vẫn mờ"
Đấy là chưa so với sự gian
khổ,chết chóc đầu rơi, máu chảy của người lính ở sa trường:
..."Bạn
ta đó
Ngã trên dây thép ba tầng
Một bàn tay chưa rời báng súng,
Chân lưng chừng nửa bước xung phong..."
Ngã trên dây thép ba tầng
Một bàn tay chưa rời báng súng,
Chân lưng chừng nửa bước xung phong..."
(Chính
Hữu)
Tình cảm của người viết thay cũng nhàn nhạt,
kiều khách qua đường ghé thăm nên bài thơ nhẹ tênh, không đem lại sự đồng cảm
nào cho độc giả.
Mới mở bài đã ảnh hưởng hai bài thơ quá nổi tiếng của
thơ Hồ Chí Minh, không nói là "thó" một cách lộ liễu:
"Sáng ra thêm bạc một nhành lau"
Hồ Chí Minh:
"Sáng ra bờ suối tối vào hang"
(Tức cảnh Păc bó)
Hồ Chí Minh - 胡志明:
Cử đầu hồng nhật cận,
Đối ngạn nhất chi mai.
Đối ngạn nhất chi mai.
(Thượng sơn - Lên núi)
(Ngẩng
đầu mặt trời đỏ
Bên
suối một nhành mai - Tố Hữu dịch)
Điều này không lạ gì, vì Hữu Thỉnh
hay"thó" thơ người khác (!)
Như phân tích ở trên, sự gian khổ của người
lính thời bình không có gì đáng kể:
Gạo thường lên sớm, thư thời chậm
Đài mở thâu đêm đỡ vắng hầm
Bao năm không thấy màu con gái
Vó ngựa nghe nhầm tiếng
guốc em
Nó còn thua xa sự không cùng, cơ cực của
kiếp sơn trang, người dân thường:
Đứt bữa bao năm đành rúc
rú
Phim sex thâu đêm chẳng
cứng dùi
Bát máu, bát ngô chờ đổi
lại
Thân phận sơn tráng con
chó thui!
(Thơ minh họa - Đỗ Hoàng)
"Bao năm không thấy màu con gái
Vó ngựa nghe nhầm tiếng
guốc em"
Câu này Hữu Thỉnh muốn nói tới cái khổ buồn
hiếm sắc trong lính nhưng nói không ra vạch, lại e dè không nói thẳng ra
"Bao năm không có muì con gái" lại viết chạch ra cho đỡ phạm
"húy" là - màu con gái. Màu con gái ra cái thớ gì? Màu con gái là bề
ngoài, mùi con gái mớí thâm trầm, chiều sâu!
Ai cũng biết "Trung
quân thiểu sắc"'-中軍少色 - Trong linh rất hiếm gái, người lính tuổi đang
trai ngoài nhu cầu tình cảm, còn nhu cầu sex rất lớn. Nên:
Tam niên tại ngũ
Trư lão như tiên
(Ba năm chui lủi chiến trường
Gặp con lợn nái, tưởng nường tiên sa!
- Đỗ Hoàng dịch thơ).
Nhưng người lính khao khát người tình, khao khát gái đến mức " Vó ngựa nghe nhầm tiếng guốc em"là một liên tưởng
mong ước không thể chấp nhận được. Người tình của người lính phải to cao : 䄷 人 -thạch nhân mới có tiếng
guốc ấy. Trong thực tế không có tiếng
guốc nào làm cho người ta nhầm với vó ngựa phi trên đường (!) .
Chỉ một câu này làm hỏng cả bài thơ vốn đã rất
sến, rất nhạt nhẽo.
Hữu
Thỉnh làm thơ đầy "Tứ chứng thi y" (sáo,dở, nhạt, nhắng) coppy...
Bài "Thư mùa đông"này
hội đủ các chứng thi y trên nên không nên đưa nó vào sách giáo khoa,bắt học
sinh làm luận văn về nó; bắt sinh viên, người nghiên cứu làm thạc sĩ, tiến sĩ sĩ
về nó!
Hà Nội 5 - 2020
Đ - H