Đỗ
Hoàng
Kiều
Thơ
Nhà
xuất bản Hội Nhà văn
Lời đầu sách :
Nhà
thơ Đỗ Hoàng sáng tác và dịch Kim Vân Kiều truyện nguyên bản ra thơ lục bát gồm
6.122 câu
Trong nguyên bản Kim Vân Kiều truyện
của Thanh Tâm Tài Tử có gần 1 000 câu thơ do Kiều (572 câu), Thúc Sinh (110
câu), Sở Khanh (8 câu) , Giác Duyên (4 câu), Tống Ngọc (44 câu) sáng tác. Đại
thi hào Nguyễn Du trong Truyện Kiều có nhắc đến việc Kiều sáng tác nhưng không
có tác phẩm nào được dịch. Mà Kiều cũng như Thúc Sinh, Sở Khanh...có rất nhiều
thơ. Chẳng hạn: Thơ luận về bạc mệnh, thơ viết ở gốc cây, thơ vịnh, thơ thù
tạc, thơ viết ở cửa công… “Khúc nhà lay tựa nên chương/ Một thiên Bạc
mệnh lại càng nảo nhân” hay: “Rút
trâm sẵn giắt mái đầu/ Vạch da cây vịnh bốn câu, ba vần” và “Lòng thơ lai láng bồi hồi/ Gốc cây lại vạch
một bài cổ thi”… Khi sáng tạo ra thơ lục bát, Đỗ Hoàng dịch tất cả các sáng
tác của Kiều, Thúc Sinh, Sở Khanh, Giác Duyên và bài Chiêu hồn tử của Tống Ngọc do Kim Trọng đọc lúc cả nhà Vương Thuý
Kiều đoàn viên.
Trong Truyện Kiều Nguyễn Du
có viết:
“Khúc nhà, tay lựa nên
chương,
Một thiên Bạc mệnh
lạị càng nảo nhân”
Nguyên bản Hán - Việt:
Bạc mệnh oán khúc
Hoài cố quốc hề thán ná Sâm Thương,
Bi luân vương hề ngọc dung hà tường?
Tỉ muội cố sủng hề nhất triêu câu tử,
Đông quân bất lệnh hề Phụng Tiên diệt vương.
Hầu môn tự hải hề Tiêu Lang mạch lộ
Thất thân phi loại hế Mậu Lâm tranh quang.
Vị lang tiều tuỵ hề cập nhĩ đồng tử,
Ly hồn tình trọng hề thiển xướng ám thương.
Tử phụ phụ thi hề sinh đại phụ tử,
Sủng suy hoàn phiến hề nhĩ sinh bất xương.
Hữu thuỷ vô chung hề bi hồ thất lữ,
Môn tiền linh lạc hề lão đại thuỳ tương.
Cổ kim hồng nhan hề mạc bất bạc mệnh.
Hồng nhan bạc mệnh hề mạc bất đoạn trường.
Ngã bản oán nhân hề nãi vi oán khúc,
Văn thử oán khúc hề thuỳ bất bi thương.
Đỗ Hoàng dịch nghĩa:
Khúc oán mệnh bạc
Lòng nhớ về quê cũ, những
lần lữa cách trở như Sâm, Thương,
Hồng nhan có phải để nỗi
buồn như điềm gở?
Chị em Triệu Phi Yến được
vua sủng ái như thế một sớm cũng tiêu tan!
Phụng Tiên chết thảm, Chúa
Xuân cũng vô tình.
Một bước vào chốn Công hầu
khác nào bước xuống bể thẳm, chàng Tiêu
Sử trở thánh khách qua đường!
Gái ở chốn Mậu Lâm tài sắc đủ điều xe duyên chẳng lựa đành bỏ
mạng.
Lòng dạ thiếp đây tiều tuỵ,
khô héo cũng vì chàng.
Hồn bỏ đi cửu tuyền, tình
nặng vô vàn sao chẳng cùng khuất nẻo trần gian? Cất lên những tiếng than nảo
nề, ai oán!
Nàng Tào Nga đội thây cha
chết đuối, cha lớn lao sinh con lớn lao!
Tấm lòng sủng ái lúc yêu,
lúc ghét, sương thu lạnh, mảnh quạt để rơi.
Trước cửa lạnh lùng, lúc
già cỗi còn ai cầu nữa.
Xưa nay hồng nhan đều là
người bạc mệnh.
Hồng nhan bạc mệnh làm
không khỏi nỗi đau đứt ruột.
Ta cùng là khách má hồng ai
oán làm ra khúc oán này.
Hỏi ai khi nghe khúc oán
này mà không buồn thương bi luỵ!
Đỗ Hoàng dịch thơ:
Khúc
oán mệnh bạc
…Nhớ về cách trở Sâm, Thương. (1)
Hồng nhan là giống buồn vương luỵ phiền.(2)
Triệu nương vua chuộng ngày đêm (3)
Chúa Xuân chán bỏ Phụng Tiên chết sầu!(4)
Chàng Tiêu người ngọc thấy đâu? (5)
Mậu Lâm con gái gieo cầu trái duyên! (6)
Vì chàng khô héo thuyền quyên (7)
Hồn vương ly loạn cửu tuyền, trần gian. (8)
Cứu cha ghi dấu sử vàng! (9)
Tấm lòng ưu ái vì nàng đó thôi! (10)
Bởi đâu làm lỡ lứa đôi?
Vô duyên già cội chẳng ngồi lầu trang (11)
Cổ kim bạc mệnh hồng nhan! (12)
Má hường phận mỏng đa đoan, đoạn trường!
(13)
Với ta khúc oán Kiều nương.
Ai nghe không khỏi xót thương phận
mình!...
Chú thích:
(1) Tích
cũ là hai ngôi sao trên trời chỉ sự xa
cách.
(2) Thuyết
hồng nhan
(3) Triệu
Phi Yến người đẹp đời Hán được vua sủng ái, sau chết vì oán hờn.
(4) Phụng
Tiên tên hiệu của Triệu Phi Yến.
(5) Tích
xưa, chàng Tiêu bán thiếp tài sắc vào cửa Công hầu không bao giờ thấy mặt nữa.
(6) Tích ở Tư Mã Tương Như - Con gái miền Mậu Lâm
đẹp nhưng cầu hôn không đúng chỗ nên xảy ra nhiều oan trái.
(7) Thuyền
quyên là gái đẹp.
(8) Theo
đạo Phật chết còn hồn vương lại dưới chín suối và trên cõi trần
(9) Tích
Tào Nga một thiếu nữ đời Đông Hán liều mình xuống sông cứu cha được đời sau
khen ngợi.
(10)
Ai cũng yêu mến Tào Nga.
(11)
Ca dao: “Còn duyên kẻ đón, người đưa/ Hết duyên đi sớm về trưa mặc lòng”, chỉ
nhưng cô gái hết duyên không còn ngồi được ở lầu hồng.
(12)(13)
Thuyết hồng nhan bạc mệnh - Người đẹp đều bất hạnh trong tình yêu và cuộc sống.
Kiều làm thơ
trước mộ Đạm Tiên (Bài một) :
“Rút trâm sẵn giắt mái đầu
Vạch da cây vịnh bốn câu,
ba vần” ( Nguyễn Du).
Đoạn này trong nguyên bản,
Kiều không vạch da cây, Thanh Tâm Tài Tử chỉ tả: …Vừa khấn, vừa đốt hương rồi
thụp ngồi trước mộ, bái xong bốn bái, nàng mới đề một bài thơ như sau:
Nguyên bản âm
Hán - Việt:
Sắc hương hà xứ dã,
Bằng điếu thống tâm tai.
Minh nguyệt lãnh loan bị,
Ám trần phong kính đài.
Ngọc tuy hoàng thổ oánh,
Danh vị bạch tuyết mai,
Thượng hữu như miên tửu
Vô nhân điện nhất tửu bôi.
Đỗ Hoàng dịch nghĩa:
Sắc hương đã trôi dạt về
miền nào rồi?
Đến đây viếng thăm lòng đau
đớn lắm thay!
Trăng sáng lạnh lẽo soi
chăn uyên.
Bụi ám mờ tấm gương trong.
Ngọc bị bùn đen vầy lấp.
Danh chưa thành trước cây
tuyết mai trắng.
Trên còn chung rượu say.
Không ai rót một chén rượu
cho người bạc mệnh, thì có em đây!
Đỗ Hoàng dịch thơ:
…Sắc tài chẳng có tri âm, (1)
Buốt lòng thăm viếng, lệ thầm xót xa!
Chăn đơn lạnh lẽo bóng ngà, (2)
Trải bao gió bụi nhạt nhoà gương trong.
(3)
Bùn nhơ vầy bẩn ngọc hồng! (4)
Tuyết mai trắng xoá tên không tỏ bày. (5)
Chỉ em cùng chị hôm nay, (6)
Xin dâng một chén rượu cay đượm nồng!..
Chú thích:
(1) Tích xưa, bạn thân nhất.
(2) Ngà chỉ ánh trăng, nghĩa bóng là người đẹp.
(3) Gương trong chỉ người đẹp.
(4) Ngọc hồng chỉ người đẹp.
(5) Tuyết mai trắng xoá chỉ người đẹp.
(6) Chỉ em cùng chị : Thuý Kiều và Đạm Tiên.
Kiều làm thơ
trước mộ Đạm Tiên (Bài hai):
Lòng thơ lai láng bồi hồi
Gốc cây lại vạch một bài cổ thi ( Nguyễn Du)
Đoạn này trong nguyên bản củaThanh
Tâm Tài Tử có tả: …Linh hồn người trước
nay đã cảm thông, vậy trước khi ra về em cũng phải có mấy câu từ biệt. Nói xong
nàng liền rút chiếc trâm ở trên mái tóc vạch vào gốc cây một bài từ tạ như sau:
Nguyên bản âm
Hán – Việt:
Tây phong hà hối khí,
Trân trân sử nhân ai.
Thảm thiết như hàm oán,
Thê lương tự hữu hoài.
Thừa loan nghi sạ khứ,
Khoá hạc nhạ trùng lai.
Bất đoạn hương hồn xứ,
Thương thương xi ấn đài!
Đỗ Hoàng dịch nghĩa:
Gió tây thổi tới lúc nào
đó?
Từng trận, từng trận làm
cho lòng người sầu nảo.
Thảm thiết như ngậm một nỗi
oán.
Buồn bã thê lương như nhớ
nhau.
Hình chim oanh đã vụt biến
đi đâu
Bóng chim hạc lại chợt về
sau đó.
Hương hồn không mất chốn
này.
Gót ngọc còn in trên lớp
rêu xanh!
Đỗ Hoàng dịch thơ:
…Gió tây tơi táp bời bời,
Nát tan cây cỏ chẳng vơi mối sầu.
Ngậm hờn, oán tủi, oan sâu.(1)
Thê lương nguồn cội, rầu rầu nhớ nhung! (2)
Oanh vờn chấp chới mông lung,(3)
Bóng chiều cánh hạc ngại ngùng về mau.
(4)
Hương hồn còn mãi muôn sau, (5)
Gót tiên, dáng ngọc in màu rêu phong!...
(6)
Chú thích:
(1) Nguyên bản Hàm
oán là ngậm nỗi oán hờn.
(2) Thê lương: Buồn thảm, não nùng.
(3) (4) Chim oanh và chim hạc.
(5) Theo thuyết nhà
Phật thì người chết rồi nhưng linh hồn vẫn còn.
(6) Gót tiên, dáng ngọc chỉ Đạm Tiên
Mở
đầu
Cõi đời muôn đắng, ngàn cay.
Kiếp tằm có được một ngày nào vui. (1)
Trải bao chìm nổi dập vùi
Mong manh phận số ngậm ngùi, xót thương!
5- Xem ra trong
cõi vô thường, (2)
Càng gian ác lắm, càng vương tội đồ. (3)
Thiên Hà cũng thể hư vô. (4)
Trăm năm chỉ nắm đất khô ngoài đồng! (5)
Trầm luân đầy đoạ má hồng (6)
10- Tài tình,
quốc sắc lắm lòng ghét ghen.(7)
Chương
một
Gia
thế Kiều
Sách xưa xem kỹ trước đèn.
Kim Vân Kiều truyện tiếng khen truyền
đời. (8)
Vào năm Gia Tĩnh thứ mười, (9)
Bên Tàu cựu quốc thuộc thời nhà Minh. (10)
15- Ở trong
thành nội Bắc Kinh, (11)
Có Vương Viên ngoại Tử Trinh tự là. (12)
Hiền thê dòng dõi họ Hà.
Vương ông tên thật phiên ra Lưỡng Tùng.
(13)
Giàu sang thuộc loại bậc trung.
20- Ở ăn hiền
hậu cả vùng mến yêu.
Đầu lòng hai gái mỹ miều.
Em Thuý Vân, chị Thuý Kiều sắc hương!
Phúc cho gia tộc họ Vương,
Vương Quan trai út theo đường thư thi.(14)
25- Thuý Vân rực
rỡ xuân thì,
Bàn tay tháp bút, làn mi diệu huyền
Mắt long lanh nước hồ tiên,
Lưng ong mềm mại dịu hiền căn cơ. (15)
Thuý Kiều sắc sảo mộng mơ,
30- Mày ngài mắt
phượng, cầm thơ đều rành.
Sắc tài hiếm có, lừng danh.
Ánh nhìn nghiêng nước, nghiêng thành
người ta. (16)
Kiều nương nổi tiếng hào hoa
Tinh thông nhạc lý, tài ba Hồ cầm (17)
35- Giỏi đàn
hát, giỏi ca ngâm,
Cung, thương biến hoá ngũ âm tuyệt vời. (18)
Cầm kỳ thi hoạ nhà nòi.
Một khúc Bạc Mệnh rụng rời gió sương (19)
“Nhớ về cách trở Sâm, Thương.
(20)
40- Hồng nhan là
giống buồn vương luỵ phiền.(21)
Triệu nương vua chuộng ngày đêm (22)
Chúa Xuân chán bỏ Phụng Tiên chết sầu!
(23)
Chàng Tiêu người ngọc thấy đâu? (24)
Mậu Lâm con gái gieo cầu trái duyên! (25)
45- Vì chàng khô
héo thuyền quyên (26)
Hồn vương ly loạn cửu tuyền, trần gian. (27)
Cứu cha ghi dấu sử vàng! (28)
Tấm lòng ưu ái vì nàng đó thôi! (29)
Bỡi đâu làm lỡ lứa đôi?
50- Vô duyên già
cỗi phải dời lầu trang (30)
Cổ kim bạc mệnh hồng nhan! (31)
Má hường phận mỏng đa đoan, đoạn trường!
(32)
Với ta khúc oán Kiều nương.
Ai nghe không khỏi xót thương phận mình!”
55- Thấu tài thi bá phục tình (33)
Hào hoa, nét
ngọc, thông minh vĩnh hằng!
Chị em đang
độ tròn trăng,
Xa gần khách
nức tiếng tăm tìm về.
Thanh nhàn
khuê các mộng mê,
60- Mặc ai nghìn dặm sơn khê kiếm tìm.
Chương hai
Kim Trọng
Có chàng tú
sỹ đa tình. (34)
Họ Kim, tên
Trọmg phú vinh nghìn vàng
Khôi ngô như
thể Phan An (35)
Tài thơ Tử
Kiến so chàng cũng thua.(36)
65- Chữ như bức hoạ thêu thùa,
Văn tài thần,
phật ngàn xưa độ trì!
Phong lưu khó
có ai bì?
Nếp nhà gia
giáo thư thi thánh hiền!
Chàng vừa qua
tuổi thiếu niên (37)
70- Nặng lòng mơ mộng dáng tiên trên trời.
Mong tìm ngọc
nữ giữa đời,
Sớm khuya
chiều sáng rối bời, bâng khuâng!
Đơn phương
tình mộng trào dâng.
Đêm chằn chặn
nhớ, ngày lâng lâng mồng!
75- Nghe danh Kiều khách má hồng,
Tây Thi tài
sắc cũng không so tày.(38)
Nổi danh thơ
phú tuyệt hay,
Thạo thành ca
khúc, lại tay Hồ Cầm.(39)
Ước gì là
được tri âm,
80- Thoả bao khao khát, âm thầm nhớ mong.
Tháng ngày
mòn mỏi chờ trông,
Người tiên
vẫn chốn phòng không mịt mù.
Mùa đông cảnh
sắc thâm u,
Mây chìm
trong sóng, trăng lu cuối ngàn.
(còn nữa)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét