VÔ LỐI PHÚ TRẠM IN RA SA RA VIẾT CHO AI ĐỌC
Đỗ Hoàng
Trong các chuyên luận trước tôi đã viết có nhiều nhà thơ dân tộc thiểu số,
họ là những nhà thơ song ngữ tài danh như Hoàng Văn Thụ, Hoàng Đức Hậu, Nông Quốc
Chấn, Bàn Tài Đoàn…thế hệ kế tiếp Lương Định, Dương Thuấn, Mai Liễu…đã góp phần
làm rạng rỡ văn học nước nhà. Trong cộng đồng 54 dân tộc của Việt Nam lấy tiếng
nói, chữ viết, chữ ,,quốc ngữ,, của người Việt, tộc người đa số làm chính. Các
nước trên thế giới, như Trung Quốc, Nga, Anh, Mĩ…cũng vậy. Trung Quốc quốc ngữ
là tiếng Hán, Nga thì tiếng Nga, Anh thì tiếng Anh…Các nhà thơ dân tộc thiểu số
như Lão Xá ,Trung Quốc, Raxun Gamzatop ,Nga, đều thông thạo quốc ngữ của mình
và họ có nhiều tác phẩm rất nổi tiếng.
Phú Trạm Inrasara dân tộc thiểu số Chăm. Người Chăm thuộc nhóm chủng tộc
Austronesia (người Nam Đảo) có nguồn gốc Đông Nam Á.
Người Chăm hay người Champa (Chăm Pa) (tiếng
Chăm: Urang Campa), còn gọi là người Chàm, người Chiêm, người Chiêm Thành, người
Hời... hiện cư ngụ chủ yếu tại Campuchia, Việt Nam, Malaysia, Thái Lan và Hoa Kỳ.
Đến thời vua Minh Mạng, vương quốc Chăm pa đã bị xóa sổ; thời Pháp thuộc còn lưu lại Bảo tàng Chăm ở Đà Nẵng. Dân số người Chăm tại Việt Nam theo số liệu Tổng điều tra
dân số và nhà ở năm 2019 là 178.948 người, tương đương dân số một phường trung
bình ở thành phố.
Hàng nghìn, hàng trăm năm qua, cộng đồng dân tộc thiểu sống trong cõi Việt
họ nắm vững tiếng phổ thông ,, tiếng Việt,, như tiếng mẹ đẻ. Riêng Phú Trạm Inrasara
tiếng Việt làm thơ rất kém. Tôi có lần khảo sát tiếng Việt của Inrasara thì thấy
ông ta trình độ chỉ lớp 1, lớp 2 trường làng. Ông ta làm thơ tiếng Việt rất
nhăng cuội, lộn xà lộn xộn, rồi đưa lẫn tiếng Hán, tiếng Anh, các dấu toán học
vào trong bài thơ như một mớ bòng bong. Phú Trạm Inrasara là loại đại biểu số I
thơ vô lối.
Báo Văn nghệ bộ mới do những người thơ vô lối cầm chịch nên số 19 Phú Trạm
Inrasara được in một chùm 2 bài. Bài thứ nhất là ,,Tam khúc Orchid Island
Taiwan,, ; bài thứ 2 ,, 3 Đoản thi trái đất,,.
Phú Trạm Inrasara đã dốt chữ Việt
lại sính dùng mấy chữ tiếng Hán và mấy chữ tiếng Anh học thời phổ thông pha trộn
vào trong bài thơ vô lối để ,,khoe ,, mình có văn hóa cao. Bài thơ nào cũng thế,
tập thơ nào cũng thế.
CON ĐƯỜNG VỠ
Người cư ngụ dưới căn nhà tồi tàn
trước ngọn đèn tồi tàn, người suy tưởng
về sự thống khổ bần hàn trong thế gới bần
cùng
giàu sang là nẻo đường rừng người đi buổi
sớm
Con đường khép lại và mở ra dưới sức nặng
bàn chân
Xát mòn vẹt đau để vui mở ngọn
cưu mang gót giày nhục nhằn cho mầm nắng
trồi lên
Con đường
rừng nhạt và chìm vào ẩn mật
kiên nhẫn chờ đợi bước chân thế hệ chưa
hình thành
bất chợt chiều nay tôi thấy con đường vỡ
đang nhìn tôi trong tiếng nói không lời
In trong tạp chí Thơ số 1&2 –
2012)
Một bài ngắn 11 dòng, In ra sa ra đã
dùng đến 20 chữ Hán chưa Việt hóa ! Rất
kém.
居 cư ở, cư trú; 寓 ngụ
1. nhờ cậy 2. nói bóng gió; 摧殘 tồi tàn : tồi tàn, hư hỏng, đổ nát; 推想 suy tưởng , như suy tư 推思. 推思 suy tư : nghĩ ngợi. 推奬 suy tưởng :đề cao mà khen thưởng;丩cưu : bò lan, quấn quýt ( nói về loại
dây leo ). 忙 mang : bận rộn, bề bộn; 辱 nhục :1. nhục, xấu hổ 2. làm nhục 3. chịu khuất; 隱密 ẩn mật 1. Dấu kín.Che dấu kín đáo. 堅忍 kiên nhẫn - Vững lòng nhẫn nại, Bền
vững chiu đựng; 世繫 thế hệ 1. Liên hệ dòng dõi của một gia tộc trải qua các đời. 2. Liên hệ
dòng dõi giữa các tông phái kế thừa nhau.
形成 hình thành hình thành, lập nên, tạo thành
Chùm thơ của Phú Trạm Inrasara in tên báo Văn nghệ bộ mới cũng dở dơi, dở
chuột. Một tí chữ Hán, một tí chữ Anh, một nhóm chữ Việt không ra làm sao, có ý
khoe mẽ. Bài đầu là
Tam khúc Orchid Island Taiwan, Tam khúc là chữ Hán =三 曲=
Nghĩa là ba đoạn.
Con cháu nhắc lời cụ Hồ vạn lần là
,, chữ ta có thì dùng chữ ta, khi nào chữ ta không có, ta mới mượn chữ chữ nước
ngoài,,. Ta có chữ ,, ba đoạn thơ,, đàng hoàng nhưng Phú Trạm Insarara không
dùng mà dùng ,,tam khúc,, cho ra vẻ ta đây cũng chú ,,khách,, Tàu Ô.
,,3 Đoản thi trái đất,,. Đoản thi là
chữ Hán = 短詩 =
Chữ Việt nghĩa là ba đoạn thơ ngắn. Sao lại
không dùng tiếng Việt. Phú Trạm Inrasara đang làm thơ tiếng Việt mà.
Tiếp đến ông ta dùng chữ Anh lởm cởm. Làm thơ
tiếng Việt mà dùng tiếng Anh để viết thì ông nội Phú Trạm Insarara cũng đếch biết
mô tê răng rứa nói chi đến người đọc bình thường. Chắc đám vô lối cho in bài
này đọc được. Đây cũng là sự lòe bạn đọc một cÁch ngu dốt, quê kệch. Tiếng Việt
có sao không viết thẳng ra ,, Ba đọan thơ về đảo hoa lan Đài Loan,, mà viết chuột
không ra chuột, dơi không ra dơi thế này ,,Tam khúc Orchid Island Taiwan,,.
Khúc một là một thông báo lịch sử, địa
lý sơ sài không có một tỉ ti nào gọi là có chất thơ, dù là chất thơ vô lối, mà nói đến quốc gia nào cũng được
[1] Sông núi dời đổi
triều đại chuyển đổi
quốc gia biến đổi
lòng người bấp bênh thay đổi không lường ,
duy rác hạt nhân là vĩnh cửu
Khúc này nói
cho nước Lào, Căm pu chia, Cu ba, Nga, Mĩ, Anh, Pháp …được tất.. Một khổ vô lối
như thông báo sử, địa mà tác giả lạm dùng đến
11 chữ Hán.
朝代 triều đại = Đời vua —
Khoảng thời gian của một dòng vua trị vì ; chuyển = quay vòng, chuyển, đổi ; 国家 quốc gia= nhà nước,
quốc gia, đất nước ; 变 biến 1. thay đổi, biến
đổi 2. trờ thành, biến thành 3. bán lấy
tiền
4. biến cố, rối loạn ; 量lường 1. đong, đo
2. bao dung 3. khả năng, dung lượng ; 唯 duy chỉ có ; 害 hạt = hại, hại vô
cùng ; 因 nhân 1. nguyên nhân 2. nhân tiện
3. tuỳ theo 4. phép toán nhân ;
永久 vĩnh cửu = vĩnh cửu,
vĩnh viễn, lâu dài, mãi mãi
[2] Và họ hiện đại hóa
chúng tôi
và họ tạo thêm nhiều,
nhiều hơn nữa
nhu cầu mới lạ cho
ngày thường của chúng tôi
[nhu cầu chưa bao giờ
cần]
và họ mang cố gái của
chúng tôi đi mất
và họ chở thứ rác lạ về
cùng với rác lạ
bệnh lạ về
nỗi lo lắng lạ về
và ở lại…
Khổ này như thông báo tổ chở rác của chị em
công nhân môi trường làm vệ sinh đường phố mỗi ngày, Nó không dính dáng gì đến
hòn quốc đảo hoa lan Đài Loan cả.
[3]
Và chúng tôi trôi giạt
về hoang đảo xa hơn
và chúng tôi chạy lên
dốc núi cao, cao hơn nữa
và tôi thấy một mình
giữa đường phố xa lạ
và tôi thấy đời tổ
tiên tôi đang ở góc bảo tàng
và tôi thầy
đời tôi
sắp bảo tàng…,,
Ngắm nhìn hòn đảo hoa lan Đài Loan, anh liên
tưởng đến thân phận dân tộc Chăm của anh, bản thân anh, hẩm hiu mạt hạng, nhưng
kể lể lạnh lùng một cách vô cảm, không một chút rung động, không để lại một
dòng đồng cảm xót thương những tộc người man di mọi rợ bị xóa sổ trong lịch sử,
bị nhồi trấu nằm trong nhà bảo tàng như chuồng bò.
Bài thứ hai trong chùm thơ của Phú Trạm
Inrasara là ,,3 Đoản thi trái đất,, viết về tai nạn Tchernobyl ,,Checnoo bin,,
bên Ucraian ; tỉnh bị đại hồng thủy Fukushima Nhật bản và đảo Haiti. Như ,,Ba khúc về đảo hoa
lan Đài Loan,,, ,,3 Đoản thi trái đất,, viết cho ba địa danh nào trên trái đất
cũng đươc.
Ngôi nà trống trong thành
phố trống
thành phố vừa bị bỏ lại
cái bàn trống trog ngôi
nhà trống
tờ giấy và cây bút bỏ trước
chiếc ghế trống
ký ức một gia đình bị đánh
mất, chắc thế
cũng có thể là những câu
thơ
bỏ quên
[1] Tchernobyl
Những câu tổ dân phố thông báo hàng ngày ở
các nơi bị dịch covis 19 . Câu thông báo của người ta còn đầy chất thông tin,
thiết thực, giúp cho công an, phường đội, tự vệ biết giải quyết kịp thời sự cố
xảy ra ở địa phương hơn các câu gọi là thơ của Phú Trạm Inrasara.
Những chiếc ô tô
những ngôi nhà và những
biệt thự
một khu cư xá đầy nhóc
người ;; rồi
một thị trấn.
trôi
như đồ chơi của bọn trẻ
con
trong bàn tay bà mẹ thiên
nhiên giận dữ,,
[2] Fukushima
Đây không phải là những câu thơ mà những câu
nói bộ khi xem ti vi chiều cảnh đại lụt ở tỉnh Fukushima, Nhật bản.
Số phận
một dân tộc
số phận một nền văn minh
số phận một vùng đất
sắp bị trôi vào cuộc chơi
ngu ngốc,,
[3] Haiti
Haiti (phát âm /ˈheɪtiː/; tiếng Pháp Haïti, phát
âm: [a.iti]; tiếng Haiti: Ayiti), tên chính thức Cộng hòa Haiti (Tiếng Pháp:
République d'Haïti)); (Tiếng Haiti: Repiblik Ayiti) (Tiếng Việt: Cộng hòa
Ha-i-ti[6]), là một quốc gia ở vùng biển Ca-ri-bê nói tiếng Creole Haiti- và tiếng
Pháp. Cùng với Cộng hòa Dominicana, quốc gia này nằm ở đảo Hispaniola, trong quần
đảo Đại Antilles. Ayiti (vùng đất núi cao) đã là tên Taíno hay Amerindian bản địa
của phía tây núi non của hòn đảo. Điểm cao nhất quốc gia này là Pic la Selle, với
độ cao 2.680 mét (8.793 ft). Tổng diện tích là 27.750 km² và thủ đô là
Port-au-Prince.
Vị trí dân tộc, ngôn ngữ
và lịch sử của Haiti độc đáo vì nhiều lý do. Đây là quốc gia độc lập đầu tiên ở
Mỹ Latin, quốc gia do người da đen độc lập phi thực dân hóa đầu tiên trên thế
giới, là quốc gia duy nhất mà sự độc lập một phần là nhờ cuộc nổi loạn nô lệ.
Dù có mối liên hệ văn hóa với các láng giềng Hispano-Caribbe, Haiti là quốc gia
độc lập chủ yếu sử dụng Pháp ngữ ở châu Mỹ, và là một trong hai quốc gia (cùng
với Canada) với tiếng Pháp là ngôn ngữ chính thức.
Quốc gia Haiti (Pháp:
État d'Haïti, Haiti: Leta an Ayiti) là tên gọi của quốc gia ở miền bắc Haiti.
Quốc gia này được tạo ra vào ngày 17 tháng 10 năm 1806 sau khi lật đổ Đế quốc
Haiti từ sau vụ ám sát Hoàng đế Jacques I. Quốc gia Haiti miền bắc nằm dưới sự
cai trị của Henri Christophe lúc đầu là Trưởng quan Chính phủ Lâm thời Haiti từ
ngày 17 tháng 10 năm 1806 cho đến ngày 17 tháng 2 năm 1807 khi ông trở thành Tổng
thống Quốc gia Haiti. Hiến pháp năm 1807 dành cho Quốc gia Haiti đã biến chức vụ
tổng thống thành vị trí suốt đời với quyền được bổ nhiệm người kế nhiệm mình.
Ngày 28 tháng 3 năm 1811, Tổng thống Henri đã tự xưng là Vua Henry I, do đó giải
thể Quốc gia Haiti và lập nên Vương quốc Haiti.,,
Quốc gia Haiti như thế mà tác giả viết quá sơ
sài thua một cái tin trênbáo và đặt cho một vùng đất nào cũng được.
Phú Trạm Inraara tỏ ra ngông nghênh, chơi trội,
ta phải viết cho ngang tầm trái đất, nhưng gã như con châu chấu lên cầm xà ich
lái xe ngựa. Chưa đi bước nào xe ngựa đã chổng bánh lên trời. Rốt cuộc ,, Tam
khúc Orchid Island Taiwan,, ; 3 Đoản thi trái đất,, hiện nguyên hình con
ngáo ộp vô lối chết tươm xác thối như cứt chó.
Đã ngu độn, dốt nát tiếng Việt không khiêm tốn
làm ra vẻ ta đây viết như thằng hề bôi son phấn đầy mặt quỷ.
Bài 1 thì ghi Tam khúc, bài 2 thì đề số 3 Đoản
thi, câu thì xuống dòng tùy tiện,
đặt dấu ngoặc ,, ;;,,
ngớ ngẩn.
,, một khu cư xá đầy nhóc
người ;; rồi
một thị trấn.
trôi,,…
o
Không chỉ Phú Trạm Inrasara mà cả đám vô lối Thanh
Tâm Tuyền, Lê Văn Ngăn, Nguyễn Quang Thiều, Nguyễn Bình Phương, Phú Trạm
Inrasara,Nguyễn Khoa Điềm, Mai Văn Phấn, Phan Hoàng, Phạm Đương, Trần Hùng, Dư
Thị Hoàn, Mã Giang Lân, Mai Quỳnh Nam, Từ Quốc Hoài, Hoàng Vũ Thuật, Hoàng Hưng,
Đỗ Doãn Phương, Đinh Thị Như Thúy,Vi Thùy Linh, Phan Huyền Thư, Trúc Thông, Thi
Hoàng, Thanh Tùng…rất ngu độn tiếng Việt, ba que xỏ lá, ném lựu đạn, trí trá, gian
manh…đã tàn phá thơ dân tộc một cách nguy hại trầm trọng.
Chùm gọi là thơ của Phú Trạm Inrasara chỉ có
bọn vô lối thưởng ngoạn với nhau, dân tộc Việt không ai chấp nhận loại này.
Hà Nội ,
ngày 1O/11/221
Đ H
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét