Hoàng Vũ Thuật
(Bài in trên báo Văn nghệ - bộ mới -
số 30 (3206) ra ngày 24/7/2021)
NGƯỜI CÂU
GIÓ
Không ai nhận
ra lối đi của gió
không ai nhận
ra gương mặt gió
anh nhẫn nại
ngồi câu trên đồi
sợi dây mảnh
mai
những con diều
làm mồi với đôi cánh mỏng
gió và gió
thổi căng phồng
túi càn khôn
kè kè bên hông rỗng rễnh
một ngày câu
hai bàn tay trắng trở về
một đời câu
tóc xanh hóa thành tóc trắng
lịch trình
gió buốt chưa thôi
gió vô hồi
ngàn sau chưa hết
có nhận ra
ta trong hữu hạn kiếp người.
19/3/2021
Đỗ Hoàng
bình giảng và dịch ra thơ Việt
NGƯỜI CÂU
GIÓ – MỘT KIỂU VIẾT PHI VĂN CHƯƠNG
Hoàng Vũ Thuật viết thơ thuộc loại chót bẹt
(kém nhất) ở Hội văn nghệ Quảng Bình thập kỷ 70. Sau đó ông chuyển qua vô lối,
tắc tỵ cũng viết loại chót bẹt. Nguyên nhân trái tim thơ của ông thuộc loại chuột
nhắt, cá gỗ. Bây giờ cả con gái út của ông cũng vậy! Quả là vô lối gia truyền, phá
nát thi ca Việt!
Dân ta là dân nông nghiệp lạc hậu nên thơ về
câu có rất nhiều. Thơ về câu rất hay của cha ông và của các nhà thơ đương đại.
“Lênh đênh mặt
nước ao sâu
Suốt đời ông
chỉ đi câu bóng mình”
(Khuyết
danh)
“Cần câu ông
kéo chùng biển rộng”
(Phạm Hữu Xướng)
“Cụ già
thong thả dong cần trúc
Hồ rộng mênh
mông mặt nước hồng
Muôn vạn đài
sen hương thơm ngát
Tuổi già vui thú với non sông!”
(Thơ vùng tạm chiếm miền Nam – Cụ Hồ muôn
tuổi)
Bài Người câu gió của Hoàng Vũ Thuật uốn
éo, triết lý cùn, tắc tỵ mù mờ, lấp lững, giả vờ làm duyên của gái già, vụ sệ,
đích teo, cẳng queo, da mặt nhăn nhúm, mà làm bộ, làm tịch với trai tơ :
« Không ai nhận ra lối đi của gió
không ai nhận ra gương mặt gió »
Đám
vô lối bây giờ không có vốn sống ngồi trong nhà lầu tưởng tượng ra cũng viết
thơ đi câu tùm lum, tà la…
« Ta câu gió
Gió câu mặt trời
Mặt trời câu
Hòn đái
Hòn đái câu hòn
Ghe… »
Người câu gió viết nhiều câu rất dở, rất thừa :
« một ngày câu hai bàn tay trắng trở
về »
Chỉ cần viết : Ngày câu, tay trắng trở
về - là đủ.
« một đời câu tóc xanh hóa thành tóc
trắng »
Chỉ cần : Một đời câu trắng tóc - là đủ…
Nhiều, nhiều cái non tay nghề và ngô nghê
lắm !
Rồi
việc đặt tựa đề, chứng tỏ người không giỏi nghề,. Không biết thuật « thôi
xao » của thơ thì làm thơ làm gì !
Trước
đây Hoàng Vũ Thuật đặt tựa đề chuyên đánh đố, tắc tỵ : Ly, Mãi viên trà, Hoàng
An, Lổ thủng… Nay đặt tựa đề dài, thừa thải « Người câu gió ». Câu gió, câu cá,
câu mực, câu chó, câu mèo…ai chả biết người mới câu được. Các động vật thấp dưới
người không có loại nào làm được ? Nên đặt câu gió là đủ nghĩa. Tiết kiệm
được một chữ ! Trong thơ tiết kiệm được một chữ như tiết kiệm một cân
vàng !
Thời
hiện đại hay thời nào cũng thế, thơ có vần, thơ không vần không quan trọng. Miễn
là tư tưởng, tình cảm của tác giả gửi đến người đọc như thế nào. Thơ không vần
không mới, nó cũ như trái đất. Ngay cha ông ta từ thuở sơ khai đã làm thơ không
vần. Các cụ đặt tên các loại ấy là : cáo, chiếu, biểu, hịch. lệnh, sớ…
« Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân
Quân điếu phạt trước lo trừ bạo
Như nước Đại Việt ta từ trước
Vốn xưng nền văn hiến đã lâu
Núi sông, bờ cõi đã chia
Phong tục Nam Bắc cũng khác… »
(Bình Ngô đại cáo – Nguyễn Trãi thay Lê Lợi viết Cáo)
Các thi sĩ hiện đại:
Thời chống Pháp:
“Đằng nớ
Vợ chưa đằng nớ
Tớ còn chờ Độc lập
Cả lũ cười vang trên ruộng bắp
Nhìn o thôn nữ cuối nương dâu!”
(Nhớ - Hông Nguyên)
“Người đẹp như tuyết
Chạm vào thấy nóng
Người đẹp như lửa
Sờ vào thấy mát
Không đói,
Gặp người đẹp cũng đói
Không khát
Gặp người đẹp cũng khát…”
(Lò Ngân Sủn)
“Nhưng em hỡi
Nếu có chàng trai chưa từng vượt qua
sóng gió
Nếu có chàng trai chưa từng vượt qua
thử thách gian lao
Có lẽ nào sánh với tình em!
(Hà Nhật)
“Nhà tôi buồn
Nuôi một con chó
Một hôm nó nói tiếng người:
Con người sống với nhau ác độc lắm!”
(Phỏng theo Thơ hậu hiện đại Thụy Điển
– Phạm Viết Đào dịch)
Hoàng Vũ Thuật không biết chữ Hán, nhưng sính dùng chữ Hán, dùng bội thực,
chữ chỉ dùng trong ngành chuyên môn, bói
toán,chưa Việt hóa bao nhiêu : Càn khôn (乾坤), lịch trình
(历程), hữu hạn (有 限),vô hồi (無回 ), nhẫn nại (忍耐)…. Chữ ta có trời đất, bước chuyển,
chỗ dừng, chịu đựng, không về,…sao không dùng ? Mỗi chữ mỗi câu thơ, người
làm thơ tiếng Việt đòi hỏi phải sáng tạo từ mới thuần Việt, giữ gìn sự trong
sáng tiếng Việt :
« Một tiếng chim kêu Sáng cả rừng »
(Khương Hữu Dụng). Chữ Sáng làm sáng câu thơ, sáng bài thơ. Người đời chỉ nhớ đến
chữ Sáng. Đời nhớ Khương Hữu Dụng chỉ một chữ Sáng !
Thuở xưa cha ông ta chỉ dùng chữ Hán (âm Hán
Việt).
. Ngay đến sau Cách mạng tháng Tám
các lớp ấu trò trường làng còn học cửu chương bằng tiếng Hán Việt :
« Nhị nhị thành tứ
Nhị tam thành lục
Thất cửu lục tam
Cửu cửu bát nhất »…
(2x2
= 4
2x3
= 6
7x9 = 63
9 x9 = 81 )
Thế nhưng thơ văn tổ tiên viết rất thuần Việt
« Trăm năm trong cõi người ta
Chữ tài, chữ mệnh khéo là ghét
nhau »
…
« Hỏi tên rằng : Mã Giám
Sinh
Hỏi quê rằng : Huyện Lâm Thanh
cũng gần »
(Đoạn trường tân thanh – Nguyễn Du)
« Thiên địa phong trần
Hồng nha đa truân
(Thuở đất trời nổi cơn gió bụi
Khách má hồng nhiều nỗi truân chuyên)
(Đoàn Thị Điểm hay Phan Huy Ích dịch
Chinh phụ ngâm của Đặng Trần Côn)
Thời cận đại :
« Nước non nặng một lời thề
Nước đi đi mãi không về cùng
non »
(Tản Đà)
« Bèo dạt mây trôi
Chốn xa xôi
Em ơi ! Bèo dạt… »
(Dân ca Quan Họ)
Nêu cha ông không giữ gìn sự trong sáng tiếng
Việt, viết như cha con Hoàng Vũ Thuật và đám vô lối bây giờ thì ai đọc !
« Bách niên trong cõi nhân ta
Tài tự, mạng tự khéo là tăng
nhau »
…
Chất vấn rằng : Mã Giám Sinh
Chất vấn rằng : huyện Lâm Thanh
cận nhà »
« Bình chuyển, vân di..y ..y
Xứ viễn phương
Muội
y , muội vẫn đợi, vẫn vọng…Bình chuyển »
« Thiên địa gió bụi
Hồng nhan nhiều nạn »
Thì còn chi Kiều, Chinh phụ ngâm, dân ca Quan Họ !
Chỉ còn đám Vô lối gian xảo, lưu manh,, giả
dối, lá mặt, lá trái, ném lựu đạn, man khai lý lịch, tà dâm bệnh hoạn, ngu
độn, tắc tỵ, đánh đố, sáo rỗng, nói bộ, đại
ngôn, kênh kiệu… :
« - Mặt hồ thủ dâm nổi sóng
-
10 giờ
30 tôi nhìn người đàn trong phòng tắm kỳ cọ như tuốt da thịt của mình
-
« Trong
cơn mơ đói và buồn
Các cô
gái đẹp mặc váy cưỡi xe máy phóng qua
Như dao
sắc phất vào tôi tứa máu
Tôi nấc
lên một câu hỏi như người sặc khói
Rằng nếu
tôi lấy họ
Tôi sẽ
ngủ với họ thế nào
-
Những
con rắn bị thủy táng trong rượu,,, »
(Nguyễn
Quang Thiều)
« Sự em có mặt cần thiết nhu¬ những sơm
mai
( nếu đời
nguời không có những sớm mai )
anh trở
dậy
đọc thơ
Nguyễn Du
những
câu lục bát buồn rưng rưng cuối đuờng của một ngày
chợt anh
muốn viết tặng em
không thể
đuợc… »
-
Cho
tôi một chỗ ngồi thầm kín trong giáo đường… »
(Thanh
Tâm Tuyền)
« -
Tôi anh lính phong tình
Nhìn
sương núi vờn quanh thân súng
Mơ
vũ điệu giao long… »
“- Ta
nhìn tượng
Tượng
nhìn hai ta
Cả ba đều
vĩnh cửu »
(Nguyễn
Bình Phương)
“Người
Champa đã đến đất này
đào
mương trồng lúa / đốt rừng làm rẫy
yêu nhau
/ sinh con đẻ cái
làm thơ
rồi ra đi
gởi Mĩ
Sơn ở lại.
Rồi người
Việt từ phương Bắc tới
lại yêu
nhau / nên xóm nên làng”
(Phú Trạm
Inrasara)
“Khỏa
thân trong chăn thèm chồng, thèm anh”
(Vi Thùy
Linh)
“Sau một
phút êm đềm trên ghế đá
Anh quên
cài khuya áo ngực của em”
(Dư Thị
Hoàn)
“- Người
ơi người, tôi yêu người tha thiết
Tôi sống
vì người, chết vì người”
-
Anh mải
mê trên đường hoạn lộ
Ngảnh về
quê hư ảnh một vầng trăng”
(Nguyễn Khoa Điềm)
Nói chung bài « Người câu gió »
của Hoàng Vũ Thuật viết tệ hại, kém nát, thô lậu, kệch cởm, uốn éo… người đọc
vô cùng bực bội, căm ghét, không có chỗ nói!
Đỗ Hoàng dịch ra thơ Việt :
CÂU GIÓ
Không ai biết lối đi của gió
Mặt gió kia chẳng tỏ ai ơi !
Anh câu chịu khó trên đồi
Sợi dây mai mảnh không rời bàn tay
Diều làm mồi chớp bay cánh mỏng
Gió, gió liền thổi rỗng căng phồng
Đất trời túi thủng bên hông
Ngày câu tay trắng số không trở về
Một đời câu tóc thề bạc trắng
Gió chuyển dời cay đắng chưa ngưng
Ngàn sau gió cũng chẳng dừng
Thấy chăng ta giữa người dưng - kiếp người !
1/2022
Đ - H
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét