ĐỖ TRUNG
LAI ĐÁNH TRỐNG QUA CỬA SẤM!
Đỗ
Hoàng
Thi thoảng cũng có
người dịch thơ tiếng nước ngoài qua bản dịch nghĩa của người khác ra thơ tiếng
mẹ đẻ. Bài thơ dịch thành công hay không thành công tùy thuộc vào sự cảm thụ của
người dịch qua việc chuyển nghĩa của người dịch nghĩa. Người dịch thơ như thế
cũng là bất đắc dĩ mà thôi. Ở nước ta có người dịch như thế làm thành cuốn sách
này sang cuốn sách khác và công bố rầm rộ trên những báo văn học chính thống:
Văn nghệ, Tạp chí Thơ, Nhà văn, Nhà văn và Tác phẩm, Người Hà Nội... như là một
“tài năng” dịch thơ, đó là Đỗ Trung Lai (!). Đỗ Trung Lai dịch thơ các đại thi hào, thi hào
Trung Hoa như Lý Bạch, Đỗ Phủ, Bạch Cư Dị, Vương Duy, Mạnh Hạo Nhiên, Đỗ Mục...
bằng bản dịch nghĩa tiếng Hán của người khác sang thơ Việt. Nhiều người nể, nhiều
người chê. Có người cho rằng Đỗ Trung Lai làm vậy khác nào chế biến thức ăn bằng
thực phẩm ôi. Tôi cố gắng đọc lại những bản dịch thơ của ông và để thưa với bạn
đọc.
Trước hết ông Đỗ Trung
Lai như ông tự nhận là không biết chữ Hán cả nói, cả viết, cả nghe, cả đọc ...nghĩa
là không biết tí gì về Hán ngữ, mà chịu khó đọc qua bản dịch nghĩa để cảm thụ
thơ tiền nhân Trung Hoa và dịch thơ theo ý riêng của mình là điều đáng trân trọng.
Nhưng người không biết ngoại ngữ dịch thơ nước ngoài ra thơ tiếng mẹ đẻ khó thành
công. Vì bản dịch nghĩa dù chính xác đến đâu thì người dịch lại ra thơ đều “tam
sao thất bản”. Có khi sai nghĩa nguyên bản bài thơ trầm trọng. Việc dịch thơ
như vậy rất phản tác dụng. Đỗ Trung Lai là thế.
Bài “Bất kiến” là bài thơ Đỗ Phủ viết cho Lý Bạch khi Lý Bạch
gần 60 tuổi rồi mà vẫn vướng vào vòng lao lý. (Lúc Lý Bạch 55 tuổi theo Lý Lân
- Vĩnh Vương chống An Lộc Sơn, nhưng Lý Hanh - Túc tông sợ Lân thắng giặc sẽ
chiếm mất ngai vàng nên phái đại quân đánh bại Lân. Lân bị giết, Lỹ Bạch bị
ghép vào tội mưu phản, đày đi biết xứ -
Quý Châu. Nửa đường may có lệnh được ân xá). Đỗ Phủ và Lý Bạch là hai người bạn
vong niên. Đỗ Phủ thua Lý Bạch 12 tuổi.
Thời xưa khoảng cách tuổi tác này là lớn lắm. Nhưng hai người quý trọng tài
nhau và viết cho nhau những bài thơ bất hủ về tình bạn thơ. Nhưng bản dịch
nghĩa trong bài thơ Bất kiến Đỗ Phủ gọi Lý Bạch là chàng không chính xác lắm
đâu. Tiếng Hán hay Hán - Việt “sanh” - (sinh) có khi là đại từ anh, bác...
Nguyên bản:
(trích)
李白
不見李生久,
佯狂真可哀!
世人皆欲殺,
吾意獨憐才。
敏捷詩千首,
飄零酒一杯。
匡山讀書處,
頭白好歸來。
“Thế nhân giai dục
sát
Ngô ý độc liên
tài
Mẫn tiệp thi
thiên thủ
Phiêu linh tửu nhất
bôi...”
Nghĩa là:
“Người đời ai
cũng muốn giết
Ý ta riêng vẫn
thương tài
Trí mau lẹ viết
nên hàng nghìn bài thơ
Lưu lạc vẫn vui
cùng chén rượu...”
Đỗ Trung Lai dịch
thơ:
“Bao người mong
chàng chết
Riêng ta thương
chàng tài
Vung bút thơ ngàn
áng
Nâng ly mặc kệ đời...”
Cả bài thơ Bất kiến có 40 chữ, Đỗ Phủ chỉ một
lần nhắc tên Lý sinh - chàng Lý (Bất kiến Lý sinh cửu). Đỗ Trung Lai mới dịch 2
câu thơ trên mà đã nhắc 2 chữ “chàng” rồi (chàng chết, chàng tài). Trong nguyên
bản có chàng đâu (!). Đây là một sự bịa “vẽ rắn thêm chân”!
Câu thơ của thi thánh Đỗ Phủ như hai viên ngọc
dạ quang:
“Thế nhân giai dục
sát
Ngô ý độc liên
tài”
Câu thơ dịch của
Đỗ Trung Lai:
“Bao người mong
chàng chết
Riêng ta thương
chàng tài”
như hai viên phân
dơi!
Không biết chữ Hán dịch thế là quá vụng, quá dỡ
nhưng còn tha thứ được vì nó chưa bay nghĩa, còn dịch câu “Phiêu linh tửu nhất
bôi “ ra “Nâng ly mặc kệ đời” là hỏng hoàn toàn bài thơ của Thánh thi!
Lý Bạch là người ôm mộng kinh bang tế thế,
không chỉ nói bằng thơ mà ông còn cầm kiếm ra thi thố với đời. Ông theo Lý Lân
chống loạn An Lộc Sơn. Đỗ Phủ viết bài Bất
kiến chính là khuyên Lý Bạch già rồi “Đầu bạch hảo quy lai” nên lui về. Lưu lạc
vẫn vui, “phiêu linh tửu nhất bôi” nhờ có
chén rượu là Lý Bạch vẫn tin vào đời và nặng đời lắm chứ! “Nâng ly mặc kệ đời”
dịch thế thì dịch cho Chí Phèo thì được!
Đỗ Trung Lai dịch không hay hơn tiền nhân rồi
vì không hiểu nghĩa gốc nên phịa ra nhiều việc sai nguyên bản. Như bài Thạch
Hào Lại:
Nguyên bản:
(Trích)
...
“...Dạ cửu ngữ
thanh tuyệt
Như văn khốc u yết
Thiên minh đăng
tiền đồ
Độc dữ lão ông biệt!”
(Đêm khuya đã dứt
lời
Như nghẹn ngào ảo
nảo
Sáng từ biệt lên
đường
Chỉ còn độc ông
lão!)
(Phạm Lệ Duyên và
Tương Như)
“Dạ cửu ngữ thanh
tuyệt” (Đêm khuy khoắt tiếng nói im bặt) có tường vách đâu mà Đỗ Trung Lai phịa
ra tường vách và mô phỏng vần điệu, ý tứ dịch giả trước đã dịch rồi dịch theo:
“Tiếng người im
ngoài tường
Đêm nghẹn ngào ảo
nảo
Sáng chia tay lên
đường
Chỉ còn mình ông
lão”
(Thạch Hào Lại -
Đỗ Trung Lai dịch lại)
Người dịch thơ
không được “sáng tác” ra kiểu này.
Đỗ Trung Lại hay
“sáng tác “và thêm thắt làm cho bài thơ
nguyên bản sai hắn nghĩa. Như bài:
VÔ GIA BIỆT (Trích)
園廬但蒿藜。
日瘦氣慘悽。
...
但對狐與狸,
豎毛怒我啼。
VÔ GIA BIỆT
(Cuộc chia tay kẻ
không nhà)
“Làng xưa giờ
toàn ngõ trống
Mặt trời gầy guộc
thảm thê
Cáo dại, chồn
hoang đẩy cửa
Dựng lông dọa cả
người về
Sinh con chưa từng
nhờ cậy
Một đời biết mấy
khổ đau
Còn nhà đâu mà ly
biệt
Mà dâng mẹ bát
canh rau...”
(Đỗ Trung Lai dịch
lại)
Nguyên bản:
...
Viên lư đãn cao
lê
...
Nhật khấu khí thảm
thê
...
Đãn đối hồ dữ ly
Thụ mao nộ ngã đề
...
Sinh ngã bất đắc
lực
Chung thân lưỡng
toan tê
Nhân sinh vô gia
biệt
Hà dĩ vi chưng
lê!?
Dịch nghĩa:
Nhà vườn toàn là
cỏ dại
...
Ánh nắng thoi
thóp cảnh tượng thê lương
...
Đối mặt ta là cáo
và cầy
Xù lông sủa ta
...
Đẻ ra ta mà chẳng
được nhờ
Suốt đời mẹ con đều
chua xót
Đời người không
có nhà để mà từ biệt
Thực làm dân đen
không đáng?
Bản dịch thơ của
Khương Hữu Dụng
Vườn lều chỉ có
gai
...
Buồn tênh bóng nắng
gầy
...
Chỉ gặp cầy với
cáo
Xù lông khịt dọa
tôi
...
Sinh tôi chẳng được
gì
Suốt đời hận cả
đôi!
Người không nhà
mà biệt
Sao gọi được là
người?
Câu kết : “Hà dĩ
vi chưng lê - Thực làm kẻ dân đen cũng không đáng - Là câu thơ tầm tâm linh trí
tuệ của bậc Đại thi hào Đỗ Phủ, Đỗ Trung Lai “sáng tác” ra “Mà dâng mẹ bát canh
rau” nói thật là bôi bẩn Thi thánh!
Bài “Đăng cao” là
bài thơ Đường thất ngôn bát cú thuộc loại kinh điển của Đường thi. Bài thơ có 8
câu đối cả tám. Người xưa đã bình bài này ở tầm vóc lớn của một trí tuệ cao
siêu, nghệ thuật điêu luyện bậc thầy, tình cảm cường liệt hiếm có mới viết nên
thi phẩm có một không hai trong thơ Đường. Nhiều bản dịch của dịch giả ở nước
ta như : Tản Đà, Tương Như, Nhượng Tống,
Nam Trân, Khương Hữu Dụng...đều chưa đạt với nguyên bản. Đọc nguyên bản vẫn thấy
hay hơn!
Đỗ Trung Lai
không biết niêm, luật, đối của Đường thi và nhất là của “Thất ngôn bát cú” nên
dịch hỏng bài Đăng cao, đảo ngược đảo xuôi, lộn tùng phèo, thật đáng trách!
Nguyên bản:
風急天高猿嘯哀,
渚清沙白鳥飛回。
無邊落木蕭蕭下,
不盡長江滾滾來。
萬里悲秋常作客,
百年多病獨登臺。
艱難苦恨繁霜鬢,
潦倒新停濁酒杯。
ĐĂNG CAO
Thiên cao, phong
cấp viên khiếu ai
Chử thanh, sa bạch
điều phi hồi
Vô biên lạc mộc
tiêu tiêu hạ,
Bất tận trường
giang cổn cổn lai
Vạn lý bi thu thường
tác khách
Bách niên đa bệnh
độc đăng đài
Gian nan khổ hân
phồn sương mấn
Lạo đảo tân đình
trọc tửu bôi!”
Nam Trân dịch
thơ:
LÊN CAO
“Gió gấp trời
cao, vượn nỉ non
Bến trong cát trắng
lượn chim cồn
Rào rào lá trút rừng
cây thẳm,
Cuồn cuộn sông về
sóng nước tuôn
Thu quạnh nghìn
khơi lòng khách nảo
Đài cao trăm bệnh
chiếc thân mòn
Gian nan khổ hạnh
đầu thêm bạc
Quặt quẹo đành
kiêng chén giải buồn!”
Đỗ Trung Lai dịch
lại:
“...Bãi vắng chim
về trên cát trắng
Trời cao gió lộng
vươn than dài
Lá đổ tơi bời
trên đất lạnh
Trường Giang cuồn
cuộn chảy về xuôi...”
Không đạt một tí
gì!
Hồi trẻ học ở trường các thầy có bảo: “Kẻ yếu
kém mà càng nhiệt tình thì thành kẻ phá hoại lớn”. Đỗ Trung Lai không biết chữ
Hán càng cố dịch thơ Hán ra thơ Việt in hết tập này đến tập khác rồi đăng đàn
diễn thuyết các hội thơ lớn như “Hội thơ Văn Miều hàng năm” thiết nghĩ là một
việc không nên làm. Tác hại của nó không
lường hết. Đỗ Trung Lai đã đánh trống
qua cửa Sấm!
Hà Nội ngày
5 tháng 5 năm 2016
Đ - H
Phụ lục:
Đỗ Phủ
BẤT KIẾN
Bất kiến Lý sinh
cửu
Dương cuồng chân
khả ai
Thế gian giai dục
sát
Ngô ý độc liên
tài.
Mẫn tiệp thi
thiên thủ
Phiêu linh tửu nhất
bôi
Khuông sơn độc
thư xứ
Đầu bạch hảo quy
lai!
Đỗ Hoàng dịch thơ:
LÂU KHÔNG GẶP
Lâu không gặp Lý
Bạch
Giả điên thật
thương thay.
Người đời đều muốn
giết
Riêng chỉ ta
thương tài.
Trì lẹ nghìn thi
tứ
Lưu lạc chén mềm
môi
Núi Khuông còn
sách đọc
Đầu bạc nên về
thôi!
Cao điểm chốt 280
- Biên giới Việt Lào năm 1972
Đ - H
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét