GỬI
NGƯỜI TÌNH BÊN KIA ĐẠI DƯƠNG
Tiểu thuyêt của Đỗ Hoàng
Nhả xuất nả Phụ nữ năm 2009
( Trích)
CHƯƠNG I
Phần I
Tôi biết chị Thương rục rịch chuẩn
bị định cư ở Mĩ từ hai mươi năm trước. Con cái chị vượt biên từ những năm 80, qua
Mĩ làm ăn được nên muốn đón cả nhà cùng sang. Ở Việt Nam chị chẳng còn người
thân nào mà vướng bận nữa. Bố chị thì đã mất từ lâu, mẹ chị cũng qua đười sau
giải phóng 1975 sau vài năm. Đà thành không phải quê hương bổn quán, chỉ là quê
chồng, nhưng anh em, chú bác, con cháu họ cũng đã đi Mĩ từ trước giải phóng miền
Nam. Ngoài quê cha, đất tổ chẳng còn ai nội thân, mấy người bà con, xa lắc,
xa lơ gặp nhau vài lần rồi cơm ai nấy
ăn, việc ai nấy mần, tàu xe cách trở nên tình cảm ứ nhạt dần, nhạt dần.
Tôi chỉ đồng hương nhưng người
dâng nước lã. Chị chần chừ như thế vì một chút tình quê mà thôi. Chị đi nữa coi
như cõi Việt này chẳng những con chị không bao
giờ trở lại mà chị cũng chẳng bao có cơ may hồi hương! Nhưng chị không
thể không đi. Đà Thành là quê hương thứ hai của chị, nơi chị đổ mồ hôi, sôi nước
mắt tạo dựng nên cơ nghiệp nhưng đã thành xa lạ khi tất cả người thân người
thân tìm đến những phương trời xa lạ. Chị ở lại đất Việt như thế cũng đã lâu rồi.
Đứa con sinh sau giải phóng năm 1975 cũng đã gần 30 tuổi. Mấy đứa kia
thì con đàn, cháu lũ
Biết chị sẽ có ngày ra đi, thế
mà hôm nay chị đi thật! Sự thật vậy, mà tôi vẫn bất ngờ, vẫn choáng vàng. Một nỗi
hoang trống lạ lẫm xâm chiếm lòng tôi.
Buồn, thật buồn!
Người làng tôi cứ bỏ xứ ra đi lần lượt. Mỗi
người đi khuât như gọt máu rơi ra khỏi cơ thể đất mẹ! hức nhối và cảm buồn.Cái
buồn đến trống trơ, hoang lạnh mà tôi là người đồng cảm với người bỏ sứ ra đi!
Thời trước bà con đi Thái, đi Lào…
khuyết mất nửa làng. Người làng tôi ra đi đầu tiên ở Đà thành là chuẩn tướng Phạm
Duy Tật. Tật đi lính khố đỏ thời Pháp lên tướng thơi Ngụy . Những ngày vỹ tuyến
17 ngăn đôi đất nước, Tật có bay ra kêu gọi dân làng hảy hướng về Quốc gia và hứa
sẽ làm cho dân làng sung sướng. Những anh nông dân ngây thơ muôn đời tin tưởng
thánh thần quên cả cày ruộng vòng vọng
ngóng vào lời hảo huyền của Tật. Cái nhà rường năm lồng, năm gian, tường gạch
tát vôi, mái ngói chạm trổ công phu đã chia đã chia cho cố nông trong thời cải
cách ruộng đất, chỉ chừa một gian bếp cho bà con của Tật thờ cúng tổ tiên. Làng
tôi rất lạ, người đi theo cách mạng, hay theo ngụy mà nên tướng cũng tự hào. Làm
nên tướng bên cách mạng thì quá kiêu hãnh, nhưng làm tướng bên ngụy cũng coi là
kẻ giỏi. Các cụ bô lão vuốt râu: “Không tài sao làm tướng người ta được”. Phe
chính có kẻ ta, phe tà có kẻ chinh!
(còn nữa)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét