Nguyễn
Minh Châu
buồn đến thối ruột! Thú thật chừng ba bốn năm trở lại đây tôi cứ
nổi lên nhũng cơn
ngán gi
ấy bút, hay so sánh mình với những anh em bạn bè cầm bút
một cách suôn sẻ bình Là một người sáng tác, chắc tôi cũng giống như nhiều anh
em sáng tác khác, có thói quen vừa viết vừa tự quan sát, nhìn theo cái ngòi bút
của mình có lúc đầy hào sảng có lúc lại đầy đắn đo hồi hộp lẫn e ngại chạy trên
mặt tờ giấy định mệnh.
Chao ôi, để bụng không nói ra thì thôi chứ nói ra cái chuyện này
nó vui lắm, mà nó cũng buồn lắm, có đôi khi thản, được trời đất ban cho một cái
tạng nhà văn luôn luôn sẵn sàng thích nghi với mọi thứ lý luận và luật lệ văn
học, họ thật sướng, viết ra trang giấy mà trong bụng chẳng bao giờ có điều gì
phải sợ sệt, lo lắng, như một người bao giờ cũng sống đĩnh đạc, cứ thẳng đường chính
rộng lớn mà đi; còn mình thì y như một kẻ gian phi lúc nào cũng như đang lén
lút thu giấu cái gì quốc cấm trong cạp quần hay dưới áo. Nghĩ mà buồn quá, nghề
giấy bút nó chẳng nuôi gì được mình mà chỉ thấy nó hành mình.
Có lúc – nói ra thật lẩm cẩm – tôi lại hay đem so sánh mình với
các nhà văn của những đất nước hàng trăm năm bình ổn, các nhân vật của họ phải
chịu đựng nỗi đau khổ dằn vặt thật là sang trọng, chứ đâu như cái đám nhân vật
của mình, không những cái đau khổ, hoạn nạn mà cả cái vui, cái hạnh phúc của họ
nó cũng nhem nhuốc, nhớn nhác, tội nghiệp quá! Hỡi ôi, bao giờ nhân vật của
mình mới được sang trọng, để cho mình cũng sang trọng lây!
Có lúc tôi lại đem công việc của chúng ta so sánh với công việc
của các nhà tiền chiến cầm bút trước cách mạng, gọi là các nhà văn hiện thực
phê phán. Ví dụ như ông Nam Cao chẳng hạn. Có lần ông ấy la lối, hô hoán ầm lên
rằng thiên hạ bít hết lối của ngòi bút ông ấy. Viết cây chuối hay con chó hoặc
kẻ say rượu đều phạm húy, đều có người đe đánh, đe đốt nhà. Bị o ép đến vậy
tưởng không viết được gì, thế mà cuối cùng, cả một đời cầm bút của Nam Cao
trước cách mạng số năm có là bao nhiêu đâu, vậy mà đủ để lại khá nhiều, nhất là
có thể có cái quyền viết rất thực, bao nhiêu lẽ đời, sự đời, bao nhiêu khuôn
mặt người đời thực đến thế. Chí Phèo thực đến thế. Thật là vừa được viết vừa
được nói. Chứ như đám chúng tôi, từ nhà văn trẻ đến lớp nhà văn già được chăm
sóc chăn dắt kỹ lưỡng quá đi mất. Sao lại như vậy nhỉ, sau bốn chục năm nhìn
trở lại những nhà văn tiêu biểu của nền văn học phần đông nếu không phải là tất
cả, đều có tì vết trong lịch sử đời cầm bút? Rồi thì từ đấy bắt buộc sinh ra
một cái thói quen không biết bắt đầu từ lúc nào mà tôi nghĩ nó rất thảm đối với
tư cách của một người nghệ sĩ, hễ cầm bút là phải nghĩ đến né tránh, che chắn,
rào đón, đối phó. Có vẻ tuồng như mỗi nhà văn mỗi khi ngồi trước trang giấy là
cùng một lúc phải cầm hai cây bút: một cây bút để viết cho người đọc bình
thường, cho đời, một cây bút khác viết cho đạo, lo việc che chắn, viết cho lãnh
đạo văn nghệ đọc. Mà cái ngòi bút thứ hai này – buồn thay – các nhà văn cầm lâu
ngày để tự bảo vệ mình cho nên cũng lắm kinh nghiệm, mà cũng tài hoa lắm!
Quả thật tôi không có tài rào đón, che chắn nhưng cầm bút viết văn
đến một lúc ngồi nghĩ lại cũng tự nhiên sinh ra giận mình đến phát chán mình,
chán cả cho đồng nghiệp, bè bạn. Điều đáng buồn nhất là những người phải xoay
trở, vặn vẹo cây bút, phải làm động tác giả nhiều nhất là những nhà văn có tâm
huyết, có tài, muốn văn học phải có cái gì của văn học, chứ không muốn văn học
chỉ là một sự minh họa. Trong khi đó những cây bút minh họa, những tác phẩm
minh họa hoặc ca ngợi một chiều thì lại thoải mái, người viết cầm bút thoải mái
mà chẳng có gì phải luồn lách, phải đắp đậy, rào đón, chỉ phải cái nó công thức
và sơ lược, nó nhạt, và càng ngày người đọc càng thấy nó giả, mỗi ngày người
đọc càng thấy rõ ở những tác phẩm minh họa và ca ngợi một chiều một sự giả dối
không thể nào bào chữa nổi, đắp đậy nổi, so với cuộc đời thực bên ngoài.
Tôi không hề nghĩ rằng mấy chục năm qua nền văn học cách mạng –
nền văn học ngày nay có được là nhờ bao nhiêu trí tuệ, mồ hôi và cả máu của bao
nhiêu nhà văn – không có những cái hay, không để lại được những tác phẩm chân
thực. Nhưng về một phía khác, cũng phải nói thật với nhau rằng: mấy chục năm
qua, tự do sáng tác chỉ có đối với lối viết minh họa, văn học minh họa, với
những cây bút chỉ quen với công việc cài hoa, kết lá, vờn mây cho những khuôn
khổ đã có sẵn mà chúng ta quy cho đấy đã là tất cả hiện thực đời sống đa dạng
và rộng lớn. Nhà văn chỉ được giao phó công việc như một cán bộ truyền đạt
đường lối chính sách bằng hình tượng văn học sinh động, và do nhiều lý do từ
những ngày đầu cách mạng, các nhà văn cũng tự nguyện tự giác thấy nên và cần
làm như thế (thậm chí có phần nào các nhà văn mới đi theo cách mạng và kháng
chiến còn coi đó là cái mới, là hoàn cảnh “lột xác”). Từ đấy rồi trở thành thói
quen. Thói quen của một người vốn quen đi trong một hành lang hẹp, vừa hẹp vừa
thấp. Lần lượt bắt đầu là các nhà văn tiền chiến rồi hết lớp người cầm bút này
đến lớp người cầm bút khác, với một khả năng thích nghi hết sức ghê gớm, các
nhà văn đã thích nghi với văn học minh họa như thích nghi với cách sống gian
khổ, thiếu thốn trong chiến tranh. Những nhà văn tuy đều cảm thấy thiếu thốn và
bức bối nhưng lại tự dụ dỗ mình và khuyên nhủ lẫn nhau tự bạt chiều cao cho
thấp đi khỏi chạm trần, tự ép khuôn khổ chiều ngang lại để khỏi kềnh càng, để
đi lại được thoải mái trong cái hành lang kia.
Tuy vậy, cứ mỗi lần hết chiến tranh chuyển sang hòa bình hoặc cứ
lâu lâu sau một số năm, đường hướng minh họa và tình hình mất dân chủ trong văn
nghệ lại làm dấy lên những vụ này vụ khác. Những người “lính gác” lại có dịp
“khép lại” và không rời mắt khỏi từng người, đặc biệt là những người có tài hay
có tật và không ngừng thuyết phục với tất cả cũng như với từng người rằng cái
hành lang kia là tất cả thế giới của văn nghệ cách mạng. Không khí để thở, bầu
trời để ngắm, đất dưới chân để đi lại chỉ có thế và đấy là tất cả thế giới minh
họa, ở trong đó nhà văn tha hồ vùng vẫy, sáng tạo và phát huy tài năng. Trong
nghệ thuật hội họa châu Âu chẳng đã từng để lại những tác phẩm danh họa về lịch
sử tôn giáo và đời các thánh, thực sự những tác phẩm hội họa cổ điển sẽ sống
đời đời ấy là những tác phẩm minh họa. Tôi nghĩ rằng đường lối chính sách của
Đảng, kể cả những cái sáng suốt đúng đắn cũng như cái sai lầm đang được điều
chỉnh trong từng thời kỳ bao giờ cũng có thể soi rọi, giúp nhà văn nhìn thấy
những vấn đề thực tế rất sâu xa của đất nước, gợi ý cho nhà văn những suy nghĩ,
chiêm nghiệm quý báu. Nhà văn như một người trinh sát cuộc đời, vậy thì việc
tìm hiểu sự hình thành những đường lối chính sách chính là sự tìm hiểu việc đời
từ trong quá trình.
Ý nghĩa tác dụng của đường lối, chính sách đối với văn nghệ là như vậy. Tôi nghĩ rằng khi nhà nghệ sĩ đứng trước một sự vật, nảy ra ý tưởng minh họa khi tìm thấy ở nó tràn ngập cảm xúc về cái chân lý và cái đẹp.
Ý nghĩa tác dụng của đường lối, chính sách đối với văn nghệ là như vậy. Tôi nghĩ rằng khi nhà nghệ sĩ đứng trước một sự vật, nảy ra ý tưởng minh họa khi tìm thấy ở nó tràn ngập cảm xúc về cái chân lý và cái đẹp.
Thất thiệt to lớn nhất của văn nghệ minh họa của ta là từ đấy
những nhà văn đánh mất cái đầu và những tác phẩm văn học đánh mất tính tư
tưởng, – nghĩa là những tư tưởng mới và độc đáo mang tính khái quát cuộc đời
của riêng từng nhà văn. Như một người đánh mất phần hồn chỉ còn phần xác, hoặc
chỉ còn cái phần hồn do nhà nước bao cấp. Chúng ta không thiếu những nhà văn có
lòng và có thực tài nhưng cũng không vì thế hàng chục năm qua có khi họ phải ôm
hai thứ đó trong người như hai thứ tội nợ, vì thế mà đâm ra sợ chính mình. Sau
một vài lần viết ra bị vấp váp, bị thổi còi, bị phê phán trên báo, được tập thể
góp ý xây dựng, nhà văn ngồi một mình giữa vắng vẻ ngâm nga: “Chút lòng trinh
bạch từ nay xin chừa“, nhưng làm sao mà chừa được. Con người nghệ sĩ là thế
đấy, dù cho rằng anh ta hèn đớn vẫn không chừa được thói quen khao khát sáng
tạo, lời nói thật và chút lòng với đời. Nó như một thứ bản chất thiên phú, hay
một thứ bản chất giời đày?
Rồi vẫn được viết, vẫn cầm bút, vừa muốn phô diễn tư tưởng, chõ
miệng ra giữa hai hàng chữ để cảnh tỉnh với đời một cái điều gì đó tiên cảm
thấy trong đời sống nhưng lại muốn giấu đi, gói nó trong bao lần lá, rào nó sau
bao tầng chữ. Văn chương gì mà muốn viết một câu trung thì phải viết một câu
nịnh? Hèn, hèn chứ? Nhà văn nước mình tận trong tâm can ai mà chẳng thấy mình
hèn? Cái sợ nó làm mình hèn. Vì thế mà từ xưa tới nay có bao nhiêu nhà văn nhà
thơ đã đi ở ẩn ngay trong tác phẩm? Chúng ta vắng thiếu những cây thông đứng
sừng sững. Có một nhà văn đàn anh nâng chén rượu lên giữa đám đàn em: “Tao còn
sống, còn cầm bút được đến bây giờ là nhờ biết sợ!”, nói rồi ngửa mặt lên trời
cười rung giường, nước mắt tuôn lã chã, giọt đổ xuống đất, giọt đổ vào lòng. Có
người cầm bút đến lúc sắp bước sang thế giới bên kia vẫn chưa dám thốt lên một
lời nói thật tự đáy lòng, không dám viết hồi ký thực, vì sợ để liên lụy đến đời
con cái. Có người lại biến cái sợ cái hèn thành một thứ vật trang sức và thách
thức, vật biểu hiện của sức sống dai dẳng. Giữa chồng sách trước mặt tôi lúc
này là hai tập Các nhà thơ cổ điển Việt Nam của nhà thơ Xuân Diệu. Một nhà thơ
lớn như Xuân Diệu làm một công việc rất công phu là bình giá và giải thích
những giá trị văn học cổ điển của nước nhà, mà sao Xuân Diệu phải rào đón, dựng
lên bao nhiêu là lớp phên giậu để tự che chắn? Sao mà khổ vậy? Rồi thì dù không
muốn tôi cũng phải nói rằng sự độc đoán và chế áp của lãnh đạo văn nghệ trong
nhiều năm qua đã khiến cho những nghệ sĩ chân chính luôn luôn gắn bó với cách
mạng, với Đảng, suốt đời cảm thấy phạm tội.
Cũng trong một con người cầm bút, có khi cái phần bất tài nhảy lên
bục tao đàn để múa may, còn cái phần tài năng thì trùm chăn nằm chờ ngày xuống
mồ!
Con đường của một cây bút trẻ hăm hở phấn đấu hết mình để trở
thành nhà văn cũng là con đường phải giết đi cái phần nhà văn trong con người
mình, con đường tự mài mòn đi mọi cá tính và tính trung thực trong ngòi bút!
Chúng ta phải nhìn lại kỹ càng cái hành trình văn học đã đi qua bằng con mắt thông minh, không phiến diện và thực sự cầu thị, để một mặt không phủ định tất cả, một mặt khác, với một tinh thần tự phê phán thấy cho được rằng: có thể đôi khi với động cơ tốt chúng ta đã trói buộc lẫn nhau trong một thời gian hơi quá dài của mấy lớp người cầm bút, trong khi lại đòi hỏi phải có những tác phẩm lớn. Thật là mâu thuẫn. Chả khác nào trói lại rồi bảo đố mày bay lên!
Chúng ta phải nhìn lại kỹ càng cái hành trình văn học đã đi qua bằng con mắt thông minh, không phiến diện và thực sự cầu thị, để một mặt không phủ định tất cả, một mặt khác, với một tinh thần tự phê phán thấy cho được rằng: có thể đôi khi với động cơ tốt chúng ta đã trói buộc lẫn nhau trong một thời gian hơi quá dài của mấy lớp người cầm bút, trong khi lại đòi hỏi phải có những tác phẩm lớn. Thật là mâu thuẫn. Chả khác nào trói lại rồi bảo đố mày bay lên!
Muốn có tác phẩm lớn, nhưng liệu chúng ta có chấp nhận nổi những tính
cách ngòi bút của một nghệ sĩ với tầm tư tưởng lớn mà tôi nghĩ bao giờ nó cũng
quá chói sáng, với những điều nói thật không phải bao giờ cũng dễ nghe, thậm
chí có thể làm đảo lộn mọi quan niệm với những nỗi dằn vặt, băn khoăn lớn chung
quanh cái bề mặt nhãn tiền và tận chín tầng đất sâu của cuộc sống con người
trên dải đất này.
Và tác phẩm lớn là gì?
40 triệu dân của đất nước Tây Ban Nha được nhân loại biết đến và
kính trọng bằng một lão gàn vĩ đại vì mang trên mình tất cả tính ảo tưởng muôn
đời của toàn thể nhân loại.
Và gần một tỷ người của đất nước Trung Hoa được nhân loại thấu
hiểu sâu sắc bằng một anh chàng nông dân A.Q.
Cả Don Quichotte lẫn A.Q chẳng hề làm xấu Tây Ban Nha lẫn Trung
Quốc, mà làm đẹp cho cả hai đất nước này.
Tài năng, nhất là những thiên tài bao giờ cũng như là của bắt
được, của trời cho, ai mà biết được bao giờ thì họ đến, nhưng cũng như một
Nguyễn Du, họ đến cũng trong khắc khoải nhân sinh, chỉ có điều đau đớn hơn mọi
chúng ta, và cũng trong lầm lũi cát bụi cuộc đời thường. Nhiệm vụ của chúng ta
là chuẩn bị bầu không khí cho họ thở, cho họ sống, đừng giết chết họ, đừng ghen
tỵ với họ, đừng làm họ sống dở chết dở mà vẫn phải nở nụ cười, đừng làm cho họ
thui chột trí tuệ lẫn tình cảm, đừng khiến họ cuối cùng trở thành chúng ta.
Công việc chuẩn bị cho thế hệ trẻ của Hội Nhà văn hôm nay không
phải là chuẩn bị cái lò ấp hàng trăm hàng ngàn quả trứng gà trứng vịt, mà là
chuẩn bị cho những tư cách nghệ sĩ và tài năng lớn ra đời.
Nói thế có bốc đồng chăng, cao vọng quá chăng? Nhưng chúng ta phải
đốt lên ngọn lửa cao vọng! Chẳng lẽ mãi mãi thế hệ nhà văn Việt Nam chúng ta
vẫn cứ yên tâm sản xuất ra toàn những sản vật không bao giờ được ngó đến trong
nền văn học thế giới. Chẳng lẽ Việt Nam ngày nay chỉ hưởng của thiên hạ mà
không làm ra được cái gì góp vào của chung của thiên hạ? Chẳng lẽ các nhà văn
Việt Nam đi ra ngoài mãi mãi chỉ có chung một cái tên riêng là nhà văn Việt
Nam? Để rồi quay trở về, con hát mẹ khen hay? Và đàn con cứ mãi mãi suốt đời tự
hào được người mẹ ở trong nhà khen ngợi!?
Tôi nghĩ rằng trước hay sau, ai cũng trở thành bảo thủ, lạc hậu,
cũ kỹ cả. Bảo thủ về già là một quy luật. Trong khoa học, đến một bộ óc mới mẻ
như Einstein về già còn bảo thủ cơ mà! Cái mới nào mà chả cũ đi, – trên dòng
thác biến đổi qua thời gian? Cái chính là chúng ta biết cười xòa chợt nhận ra
mình đã sai lầm, đã bảo thủ. Chúng ta sẽ trở nên sáng suốt hơn sau cái tiếng
cười ấy. Bởi vì sau đó chắc chắn chúng ta sẽ không bao giờ giơ tay ngăn cản cái
mới, cái tiến bộ, mà sẽ xuất hiện một quyết tâm làm mới lại mình với thái độ
chân thành, xởi lởi, cởi mở, để cùng nhau xây dựng một giai đoạn văn học và văn
nghệ mới.
Vừa qua chúng ta có in lại tuyển tập của các nhà văn đàn anh. Giở
những bản tổng kết những đời văn như còn đẫm mồ hôi ấy, điều khôn ngoan cuối cùng
rút ra là không chừa một ai, tất cả chúng ta phải biết lễ phép trước quy luật
đào thải. Những cái gì đích thực văn chương thì nó còn, không tái bản, không
tuyển tập, báo chí không đề cao lên nó cũng còn. Nó còn như đất cát, cây cỏ,
như ca dao, tục ngữ, như cuộc sống bình dị và bền vững luôn luôn còn đó. Còn
những gì phe phẩy, ưỡn ẹo hoặc cứ nhảy cẫng lên thì ngược lại, nó mất, cát sỏi
lại trở về cát sỏi. Tôi đọc những tuyển tập thấy rất tiếc cho những tài năng.
Giá mấy chục năm qua văn nghệ không chủ yếu lấy minh họa làm đường hướng, đừng
có cái hành lang hẹp và thấp ấy, cả cái bầu không khí nghi ngờ lơ lửng trên đầu
các văn nghệ sĩ, mà chủ trương khuyến khích cá tính, khuyến khích sáng tạo và
chấp nhận đa dạng, chấp nhận sáng tối, hoàn toàn đặt lòng tin vào lương tri của
các nhà văn, không nửa tin nửa nghi ngờ và đề phòng, để cho văn nghệ một khoảng
đất rộng rãi hơn nữa thì các nhà văn và những nghệ sĩ sáng tạo đến nay đã đầu
bạc phơ, kẻ còn người mất, họ còn để lại cho chúng ta nhiều hơn thế này. Và không
khéo những cái gì và những người mà lâu nay chúng ta kêu ca, lên án hoặc cố
tình quên đi lại là những cái, những người còn lại, còn để lại.
Sự còn lại mất đi của số phận những tác phẩm văn học cũng như
những đời văn trong độ lùi thời gian bao giờ cũng ngầm chứa đựng một sự lựa
chọn đầy huyền diệu và công bằng.
Hình như nhân dân, cái nhân dân Việt Nam đầy trầm tĩnh và kỳ tài
mà hình ảnh đã được nghệ thuật điêu khắc từ hàng trăm năm nay chạm khắc lên
khối gỗ thành bức tượng ngàn mắt ngàn tay, đến hôm nay vẫn không ngừng sáng
suốt lựa chọn giúp cho chúng ta những cái gì đích thực của nghệ thuật, giữa
những đồ giả, để bỏ vào cái gia tài văn hóa của đất nước để lại từ Đinh, Lê,
Lý, Trần. Và cũng nhân dân, cái nhân dân Việt Nam dũng cảm sau mỗi lần đánh
giặc xong lại lặng lẽ và lầm lụi làm ăn đang giơ bàn tay chai sạn vẫy chúng ta
lại, kể cho chúng ta nghe về cái nhất thời ở trong cái muôn đời, cái độc ác nằm
giữa cái nhân hậu, cái cực đoan nằm giữa tinh thần xởi lởi, cởi mở, cái nhẩy
cẫng lên lấc láo giữa cái dung dị, thái độ bình thản chịu đựng và tinh thần
trách nhiệm đầy suy nghĩ.
Nguồn:
Báo Văn nghệ, Hà Nội, số 49 & 50 (5-12-1987
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét