HUNG TRẠCH
Lts: Bạch
Cư Dị và Lý Bạch, Đỗ Phủ là ba nhà thơ lớn đời Đường. Ông không đạt chiều cao của
Lý Bạch, chiều sâu của Đỗ Phủ , nhưng ông có chiều rộng. Thơ ông tố cáo mạnh mẽ xã hội đơng thời! Nhà thơ
Đỗ Hoàng dịch nhiều thơ của các đại thi hào. Bạch Cư Dị chiếm một số lượng đáng
kể. Xin giới thiệu bài “Hung trạch – Nhà dữ”. Đỗ Hoàng dịch thời quân ngũ
vannghecuocsong.com
BẠCH CƯ DỊ
白居易
凶宅
長安多大宅,
列在街西東。
往往朱門內,
房廊相對空。
梟鳴松桂枝,
狐藏蘭菊叢。
蒼苔黃葉地,
日暮多旋風。
前主為將相,
得罪竄巴庸。
後主為公卿,
寢疾歿其中。
連延四五主,
殃禍繼相鐘。
自從十年來,
不利主人翁。
風雨壞檐隙,
蛇鼠穿牆墉。
人疑不敢買,
日毀土木功。
嗟嗟俗人心,
甚矣其愚蒙。
旦恐災將至,
不思禍所從。
我今題此詩,
欲悟迷者胸。
凡為大官人,
年祿多高崇。
權重持難久,
位高勢易窮。
驕者物之盈,
老者數之終。
四者如寇盜,
日夜來相攻。
假使居吉土,
孰能保其躬。
因小以明大,
借家可喻邦。
周秦宅崤函,
其宅非不同。
一興八百年,
一死望夷宮。
寄語家與國,
人凶非宅凶。
Hung trạch
Trường An
đa đại trạch,
Liệt tại
nhai tây đông.
Vãng vãng
chu môn nội,
Phòng lang
tương đối không.
Kiêu minh
tùng quế thụ,
Hồ tàng lan
cúc tùng.
Thương đài
hoàng diệp địa,
Nhật mộ đa tuyền
phong.
Tiền chủ vi tương
tướng,
Đắc tội thoán Ba
Dung.
Hậu chủ vi công
khanh,
Tẩm tật một kỳ
trung.
Liên diên tứ ngũ
chủ,
Ương họa kế
tương chung.
Tự tòng thập
niên lai,
Bất lợi chủ
nhân ông.
Phong vũ hoại
thiềm khích,
Xà thử
xuyên tưởng dung.
Nhân nghi bất
cảm mãi,
Nhật hủy thổ
mộc công.
Ta ta tục nhân
tâm,
Thẫm hỹ kỳ ngu
mông.
Đãn khủng tai
tương chí,
Bất tư họa sở
tòng.
Ngã kim đề thử
thì,
Dục mộ mê giả
dung.
Phàm vi đại quan
nhân,
Niên lộc đa cao
sùng.
Quyền trọng trì
nan cửu,
Vị cao thế dị
cùng.
Kiêu giả vật chi
doanh,
Lão giả số
chi chung.
Tứ giả như
khấu đạo,
Nhật dạ lai
tương công.
Giả sử cư
cát thổ,
Thục năng bảo
kỳ cung?
Nhân tiểu
dĩ minh đại,
Tá gia khả
dụ bang.
Chu, Tần trạch
Hào, Hàm,
Kỳ trạch
phi bất đồng.
Nhất hưng
bát bách niên,
Nhất tử Vọng
Di cung.
Ký ngữ gia
dữ quốc,
Nhân hung
phi trạch hung.
Đỗ Hoàng dịch
nghĩa:
NHÀ DỮ
Ở Trường An
có nhiều nhà lớn
Từng dãy thẳng,
đứng hai bên đường
Thường thường
bên trong cửa son
Có những
phòng hiên đối nhau mà bỏ không
Cú kêu
trong cây tùng, cây quế
Cáo ẩn nơi
khóm cúc, khóm lan
Mặt đất đầy
rêu xanh, lá vàng rải rác
Mỗi buổi
chiều tà từng cơn gió lốc thổi
Chủ trước
làm quan tướng
Phải tội
đày đi Ba Dung
Chủ sau là bậc
công khanh
Ốm lâu rồi cũng
chết trong nhà ấy
Liền liền đến bốn
năm chủ
Tai vạ cứ kế tiếp
dồn
Đã từ mười năm lại
đây
Cái nhà này không
lợi chủ!
Mưa gió làm hỏng
hết mái hiên, khe cửa
Chuột rắn đục
khoét kẽ ngặt, chân tường
Người ta nghi hoặc,
chẳng ai dám mua
Những vật xây dựng
bằng gạch, gỗ, ngày một hư nát
Than ôi! Bụng dạ
người đời
Sao mà ngu muội
quá thế!
Chỉ sợ tai vạ sẽ
đến
Không nghĩ xem nó
nguồn cơn từ đâu ra
Nay ta viết bài
thơ này
Mong thức tỉnh những
người mê muội trong lòng
Phàm đã làm
đến quan to
Phần nhiều
tuổi cao mà bổng hậu hĩ
Quyền đã to
thì khó giữ được lâu
Ngôi đã cao
thì thế dễ cùng
Kiêu mãn,
theo lẽ của sự vật, tất sẽ tràn đổ
Già là lúc
số mệnh sắp hết
Bốn điều ấy
như trộm cướp
Ngày đêm
xúm lại tiến công mình
Ví bằng có
được ở chỗ đất lành
Dễ ai đã giữ
được toàn thân?
Suy việc nhỏ
để rõ việc lớn
Mượn việc
nhà để nhắc việc nước:
Nhà Chu,
nhà Tần cùng đóng đô ở Hào, Hàm cả
Thế là chỗ ở
không phải không giống nhau
Vậy mà một
đằng thì hưng thịnh đến tám trăm năm
Một đằng
thì hết đời ở cung Vọng Di
Nhắn nhủ những
ai có nhà, có nước
Chỉ có người
dữ, chứ không có nhà dữ!
Đỗ Hoàng dịch
thơ:
NHÀ DỮ
Trường An
nhiều nhà lớn
San sát khắp
Tây Đông.
Nhiều cửa son lở
lói,
Lắm căn phòng bỏ
không
Cú kêu trong vách
quế
Cáo ẩn nơi khóm
tùng
Rêu xanh lá vàng
rụng
Sớm chiều gió giật
rung.
Chủ trước là quan
lớn
Phải tội đày Ba
Dung.
Chủ sau bậc khanh
tướng
Số già cũng tử
vong.
Tiếp liền năm sáu
chủ
Tai họa cứ dập dồn
Đã mười năm trở lại
Nhà vắng người hỏi
thăm
Mưa gió làm hỏng
mái
Chuột đục khoét,
rắn lùng.
Ngày càng thêm mục
nát
Nhà dữ có ai ưng!
Ôi người ôi bụng
dạ
Ngu muội đến thế
cùng.
Chỉ sợ tai vạ đến
Không xét kỹ nguồn
cơn.
Nay ta làm thơ tỏ
Nhắc ai kẻ mê
lòng.
Đã phàm là quan lớn
Tuổi cao bổng lộc
hồng.
Quyền to khó giữ
được
.Kiêu mãn tất sụp
đổ
Ngôi cao thế dễ
cùng.
Già số mệnh long
đong
Bốn điều như trộm cướp
Đêm ngày đến tấn
công!
Ví bằng chỗ đâts
tốt
Thân đâu dễ bảo
toàn
Suy nhỏ ra việc lớn
Chuyện nhà để nói chung
Chu, Tần đất Hàm ở
Đều là nơi đế
vương
Người ngàn năm
hưng thịnh
Kẻ một sớm không
còn.
Nhắc làng rồi nhắn
nước
Người dữ chứ nhà
không!
Cao điểm chốt
176, biên giới Việt – Lào năm 1972
Đ - H
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét