NHÀ THƠ ĐỖ
HOÀNG
Lts: Đỗ
Hoàng sinh năm 1948, quê quán Thôn Thuận Trạch, xã Mĩ Thủy, huyện Lệ Thủy, tỉnh
Quảng Bình. Thuở nhỏ học trường làng, lớn lên học cấp1, cấp2, cấp 3 ở huyện
nhà. Tốt nghiệp cấp 3 (lớp 10) địa phương bắt buộc về bổn quán lao động cải tạo
vì bố đẻ và 4 bác ruột đi lính Pháp.( Mặc dầu 5 người đều có công diệt chủ
nghĩa phát xít – Chiến dấu chống quân Đức 1940 - 1945). Sau thời gian lao động
cải tạo được trên cho đi học đại học ngoại ngữ tiếng Pháp. Đỗ Hoàng thông thạo
các ngoại ngữ: Trung, Nga, Anh, Pháp, biết vài tiếng sắc tộc…Nhưng lại bị đưa về
học Cao đẳng Sư phạm khoa Toán Lý dạy cấp 2. Năm 1971 nhập ngũ vào quân đội
nhân dân Việt Nam chiến đấu ở chiến trường A,B,C. Sau giải ngũ về học lại đại học.
Từng làm tạp chí Diễn đàn Văn nghệ, tạp chí Nhà văn…
Đỗ Hoàng văn chương chính thống xếp loại đội
sổ. Mười năm Thơ Vô lối lên cầm chịch, Đỗ Hoàng không được một một tờ báo nào
in bài! Chỉ Phạm Tiến Duật ưu ái nói “trong
50 văn sĩ Việt có Đỗ Hoàng”.
Bù lại, rượu bầu và anh em tôn vinh thì Đỗ Hoàng
có trên 20 danh hiệu sáng giá : “Anh hùng bậc nhất giữ gìn sự trong sáng Thơ Việt
(Triệu Lam Châu), Đỗ Hoàng sánh với Đỗ Phủ (Dương Thuấn), Tam Kiệt văn chương
Việt (Nguyễn Hoàng Đức), Đệ nhất thơ Việt (Nguyễn Tùng Linh), “Bậc nhất về Thơ
và phê bình Thơ – Nguyễn Hoàng Đức), Thánh Thí ( Mai Liễu, Bao Thang, Loa Dieu,
Trần Chấn Uy…), Thiên tài Thơ Việt (Nguyễn Khôi)…
Đỗ Hoàng làm
3 việc sau đây thì thì chỉ có Thánh nhân mới làm được!
Phóng tác 金雲翹傳 Kim Vân Kiều
truyện của Thanh Tâm Nhân ra thơ Việt (6122 câu thơ lục bát) làm hay cho Kim
Vân Kiều truyện.
Dịch thơ Lý Bạch làm cho thiên tài Lý Bạch hay
hơn.
Hay câu dịch
tuyệt phẩm:
洗兵條支海上波,
放馬天山雪中草
Tẩy binh Điều
Chi hải thượng ba,
Phóng mã
Thiên Sơn tuyết trung thảo.
Nghĩa:
Nước Điều
Chi rửa giáo gươm trên sóng biển
Dong ngựa về
núi Thiên Sơn cho ăn cỏ tuyết
Đỗ Hoàng dịch
thơ Lý Bạch:
Rửa gươm
trong sóng bể bể dâu
Ngựa ăn cỏ
máu tận đầu Thiên Sơn!
3, Sửa một
chữ cho Tố Hữu để Tố Hữu thành Thi hào. Việc làm này nhà thơ tài danh Trần Chấn
Uy cùng thời tôn vinh: “Chí phải! Đỗ Hoàng là bậc Thánh Thi”
vannghecuocsong.com
Lý Bạch
CHIẾN THÀNH
NAM
Nguyên bản:
戰城南
李白
戰城南
去年戰,桑乾源。
今年戰,蔥河道。
洗兵條支海上波,
放馬天山雪中草。
萬里長征戰,
三軍盡衰老。
匈奴以殺戮為耕作,
古來唯見白骨黃沙田。
秦家築城避胡處,
漢家還有烽火燃。
烽火燃不息,
征戰無已時。
野戰格鬥死,
敗馬號鳴向天悲。
鳥鳶啄人腸,
銜飛上挂枯樹枝。
士卒塗草莽,
將軍空爾為。
乃知兵者是兇器,
聖人不得已而用之。
Chiến thành
nam
Khứ niên
chiến, Tang Càn nguyên,
Kim niên
chiến, Thông Hà đạo.
Tẩy binh Điều
Chi hải thượng ba,
Phóng mã
Thiên Sơn tuyết trung thảo.
Vạn lý trường
chinh chiến,
Tam quân tận
suy lão.
Hung Nô dĩ
sát lục vi canh tác,
Cổ lai duy
kiến bạch cốt hoàng sa điền.
Tần gia
trúc thành bị Hồ Xứ,
Hán gia
hoàn hữu phong hỏa nhiên.
Phong hỏa
nhiên bất tức,
Chinh chiến
vô dĩ thì.
Dã chiến
cách đấu tử,
Bại mã hào
minh hướng thiên bi.
Ô diên trác
nhân trường,
Hàm phi thướng
quải khô thụ chi.
Sĩ tốt đồ
thảo mãng,
Tướng quân
không nhĩ vi.
Nãi tri
binh giả thị hung khí,
Thánh nhân
bất đắc dĩ nhi dụng chi.
Dỗ Hoàng dịch
nghĩa:
CHIẾN THÀNH
NAM – KHÚC HÁT CŨ
Đầu sông
Tang Càn, năm ngoái vừa đánh nhau .
Năm nay lại
đánh nhau tại miền sông Thông Hà
Nước Điều
Chi rửa giáo gươm trên sóng biển
Dong ngựa về
núi Thiên Sơn cho ăn cỏ tuyết
Đánh nhau
dai dẳng bên ngoài muôn dặm
Hết thảy ba
quân đều ốm và già yếu
Rợ Hồ thì lấy
sự giết chóc thay cho việc cày bừa
Từ xưa chỉ
thấy xương trắng trên cánh đồng cát vàng
Nhà Tần xây
thành phòng ngự giặc Hồ,
Nhà Hán đốt
lửa hiệu còn cháy rực.
Lửa báo động
cháy không hề tắt,
Chiến chinh
chẳng bao giờ ngừng.
Kẻ tử trận
trong cuộc đánh giáp la cà nơi đồng nội
Ngựa thua
trận nhìn trời hí vang thảm thiết
Diều quạ mổ
ruột người
Ngậm tha
bay treo lơ lững trên cây khô
Lính hèn chết
vuì trên đồng cỏ,
Tướng quân
một mình thơ thẩn lơ láo.
Mới biết rằng
binh đao là rất nguy hiểm,
Thánh nhân
bất đắc dĩ mới dùng đến.
(Năm 747)
Đỗ Hoàng dịch
thơ:
CHIẾN THÀNH
NAM
Sông Tang
Càng đánh nhau năm ngoái,
Miền Thông
Hà nay lại giết nhau
Rửa gươm
trong sóng bể bể dâu
Ngựa ăn cỏ
máu tận đầu Thiên Sơn!
Đánh nhau
mãi oán hờn còn mãi.
Ba quân tàn
bại hoại xác xơ
Hung Nô
quên cả cày bừa
Xương phơi
trắng cát từ xưa vẫn còn
Nhà Tần xây
thành phòng rợ dữ,
Nhà Hán kia
đốt lửa đêm đêm
Đêm đêm lửa
điếm đốt lên
Chiến tranh
dai dẳng chất trên kiếp người!
Kẻ bị giết
đầy nươi đồng nội
Ngựa hí buồn
vọng tới trời xanh
Quạ diều rỉa
thị lương nhân
Thịt xương
lủng lẳng treo cành cây khô
Lình hèn chết
chỏng chơ cỏ rả
Bại tướng sầu
tơi tả đao cung
Binh đao ác
độc vô cùng
Thánh nhân
cực lắm mới dùng ai ơi!
Cao điểm chốt
176, biên giới Việt – Lào năm 1972
Đ - H
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét