HỮU THỈNH BỐC THƠM NGUYỄN QUANG THIỀU
Đỗ Hoàng
Thật ra cái gọi là" thơ" Nguyễn
Quang Thiều không nên mất thì giờ, tâm sức
vào nó. Nó không phải thơ, không phải văn, phú, vè, điếu, sớ, tụng, kệ , kinh,
nói lối, chầu văn, lý ngựa ô, lý con trâu, con bò gì cả...Nó là quái thai dị dạng
chưa bao giờ có trong lịch sử văn học nước nhà. Bây giờ bài "Ấn tượng Nguyễn
Quang Thiều" của Hữu Thỉnh mới lẽ ra " Hữu Thỉnh là Trùm Sò trong
nhóm văn thơ Mậu dịch, văn thơ linh Bureau - bia rô (văn
phòng) lăng xê Nguyễn Quang Thiều lên tận chín tầng mây. Đưa Nguyễn Quang Thiều
từ một người culit - công an gia truyền, học cu lít chuyên nghiệp về dao búa
lên hàng "Nhà thơ nổi tiếng - Tai tiếng" (!).
Tôi đã có nhiều bài phê bình đám bốc thơm thơ
Nguyễn Quang Thiều như Nguyễn Đăng Điệp, Văn Chinh, Nguyễn Thụy Kha, Thiên Sơn,
Nguyễn Ngọc Phú, Nguyễn Thị Loan... và dịch " thơ" Nguyễn Quang Thiều ra thơ Việt nên không muốn
mất thì giờ của bạn đọc phải nghe bình, phê lại cái dở hơi của Nguyễn Quang Thiều
mà chỉ trích những ý khen không phải lối của Hữu Thỉnh. Hữu Thỉnh bốc thơm ý
như:
"
Nguyễn
Quang Thiều đã đưa văn xuôi vào thơ tạo ra một trường thẩm mỹ cho riêng mình,
khước từ mọi ước lệ, khước từ mọi véo von nhễ nhại. Khước từ mọi du dương quen
cũ. Nguyễn Quang Thiều huy động tối đa những ngẫu nhiên....":
“Dù
thế nào tôi vẫn muốn hát lên một bài ca. Bởi sự ra đi của chúng đẹp làm sao,
như một cơn mơ, như một đêm vũ hội.
Con
ốc sên cuối cùng đã bò qua bức tường bao quanh vườn cũ mốc. Cái chóp vỏ cuối
cùng đã khuất phía bên kia"
Thơ
anh huy động được các yếu tố trữ tình và tự sự, cả thông tin, cả tản bút, cả
bình luận. Anh muốn tạo ra những hợp âm”.
(Chuyển
động- Nguyễn Quang Thiều)
Lại quá véo von, nhễ nhại, du dương, sao, sến,
dở hơi hơn cả Thị Nở...
Cha
ông ta đã đưa văn xuôi vào thơ từ lâu mà rất hay:
遷都詔
李太祖
遷都詔
昔商家至盤庚五遷,周室迨成王三徙。豈三代之數君徇于己私,妄自遷徙。以其圖大宅中,為億萬世子孫之計,上謹天命,下因民志,苟有便輒改。故國祚延長,風俗富阜。而丁黎二家,乃徇己私,忽天命,罔蹈商周之跡,常安厥邑于茲,致世代弗長,算數短促,百姓耗損,萬物失宜。朕甚痛之,不得不徙。
況高王故都大羅城,宅天地區域之中,得龍蟠虎踞之勢。正南北東西之位,便江山向背之宜。其地廣而坦平,厥土高而爽塏。民居蔑昏墊之困,萬物極繁阜之丰。遍覽越邦,斯為勝地。誠四方輻輳之要會,為萬世帝王之上都。
朕欲因此地利以定厥居,卿等如何?
Thiên
đô chiếu
Tích Thương gia chí Bàn Canh ngũ
thiên, Chu thất đãi Thành Vương tam tỉ. Khởi Tam Đại chi sổ
quân tuẫn vu kỷ tư, vọng tự thiên tỉ. Dĩ kỳ đồ đại trạch trung, vi ức vạn thế
tử tôn chi kế; thượng cẩn thiên mệnh, hạ nhân dân chí, cẩu hữu tiện triếp cải.
Cố quốc tộ diên trường, phong tục phú phụ. Nhi Đinh Lê nhị gia, nãi tuẫn kỷ tư,
hốt thiên mệnh, võng đạo Thương Chu chi tích, thường an quyết ấp vu
tư, trí thế đại phất trường, toán số đoản xúc, bách tính hao tổn, vạn vật thất
nghi. Trẫm thậm thống chi, bất đắc bất tỉ.
Huống Cao Vương cố đô Đại La thành,
trạch thiên địa khu vực chi trung; đắc long bàn hổ cứ chi thế. Chính Nam Bắc
Đông Tây chi vị; tiện giang sơn hướng bội chi nghi. Kỳ địa quảng nhi thản bình,
quyết thổ cao nhi sảng khải. Dân cư miệt hôn điếm chi khốn; vạn vật cực phồn
phụ chi phong. Biến lãm Việt bang, tư vi thắng địa. Thành tứ phương bức thấu
chi yếu hội; vi vạn thế đế vương chi thượng đô.
Trẫm dục nhân thử địa lợi dĩ định
quyết cư, khanh đẳng như hà? - Lý Thái Tổ
Bản dịch (Khuyết danh): - Chiếu dời
đô
Xưa nhà Thương đến đời Bàn Canh năm lần dời đô, nhà Chu đến đời
Thành Vương ba lần dời đô. Há phải các vua thời Tam Đại ấy theo ý riêng tự tiện
di dời. Làm như thế cốt để mưu nghiệp lớn, chọn ở chỗ giữa, làm kế cho con cháu
muôn vạn đời, trên kính mệnh trời, dưới theo ý dân, nếu có chỗ tiện thì dời đổi,
cho nên vận nước lâu dài, phong tục giàu thịnh. Thế mà hai nhà Đinh, Lê lại
theo ý riêng, coi thường mệnh trời, không noi theo việc cũ Thương Chu, cứ chịu
yên đóng đô nơi đây, đến nỗi thế đại không dài, vận số ngắn ngủi, trăm họ tổn
hao, muôn vật không hợp. Trẫm rất đau đớn, không thể không dời.
Huống
chi thành Đại La, đô cũ của Cao Vương, ở giữa khu vực trời đất, được thế rồng
cuộn hổ ngồi, chính giữa nam bắc đông tây, tiện nghi núi sông sau trước. Vùng
này mặt đất rộng mà bằng phẳng, thế đất cao mà sáng sủa, dân cư không khổ thấp
trũng tối tăm, muôn vật hết sức tươi tốt phồn thịnh. Xem khắp nước Việt đó là
nơi thắng địa, thực là chỗ tụ hội quan yếu của bốn phương, đúng là nơi thượng
đô kinh sư mãi muôn đời.
Trẫm
muốn nhân địa lợi ấy mà định nơi ở, các khanh nghĩ thế nào? "
Bề thế , cao sang,
uy nghi,hùng hồn, lay động tâm can và hay hơn vạn lần cái gọi là thơ văn xuối của
Nguyễn Quang Thiều!
Hoặc:
Chơi giữa mùa trăng (Trích) - Thơ văn xuôi của Hàn Mặc Tử
..."Hai chị em đồng dang tay
níu áo gượng vào nhau dấn bước lên cao... Thỉnh thoảng mỏi hai đầu gối quá, cả
chị liền em đồng ngã lăn ra. Lại một dịp cho tiếng cười của chị tôi được nở ra,
giòn tan trong không khí. Lên tới đỉnh là hao mòn đi một ít. Nhưng mà ngợp quá
sáng quá, hứng trí làm sao? Đây có phải là nước Nhược non Bồng, động phủ thần
tiên ngàn xưa còn sót lại? Nhìn xuống cát cố tìm dấu tích gì lưu lại một vết
chân của Đào Nguyên Tiên nữ, nhưng tấm cát phẳng lờ như lụa căng, trinh bạch
làm sao.
Bất tri thử địa quy hà xứ
Tu tựu Đào Nguyên vấn chủ nhân?
Bây giờ chúng tôi đương ở giữa mùa trăng, mở mắt ra cũng không thấy rõ
đâu là chín phương trời, mười phương phật nữa. Cả không gian đều chập chờn
những màu sắc phiêu diêu đến nỗi đôi đồng tử của chị tôi và tôi lờ đi vì chói
lói... Ở chỗ nào cũng có trăng, có ánh sáng cả, tưởng chừng như bầu thế giới
chở chúng tôi đây cũng đang ngập lụt trong trăng và đang trôi nổi bình bồng đến
một địa cầu nào khác.
Ánh sáng tràn trề, ánh sáng tràn lan, chị tôi và tôi đều ngả vạt áo ra
bọc lấy, như bọc lấy đồ châu báu... Tôi bỗng thấy chị tôi có vẻ thanh thoát
quá, tinh khôi, tươi tốt và oai nghi như pho tượng Đức Bà Maria là đức tinh
truyền chí thánh. Tôi muốn sốt sắng quỳ lạy mong ơn bào chữa. Nhưng trời ơi,
sao đêm nay chị tôi đẹp đẽ đến thế này. Nước da của chị tôi đã trắng, mà vận áo
quần bằng hàng trắng nữa, trông thanh sạch quá đi.
Tôi nắm tay chị tôi giật lia lịa và hỏi một câu hỏi tức cười làm sao:
“Có phải chị không hở chị?”. Tôi run run khi tôi có cái ý nghĩ: Chị tôi là một
nàng Ngọc nữ, một hồn ma, hay một yêu tinh. Nhưng tôi lại phì cười và vội reo
lên: “A ha, chị Lễ ơi, chị là trăng, mà em đây cũng là trăng nữa!”.....
Dẫn chứng thế này thì làm sang cho Thiều quá!
Hữu
Thỉnh bốc tiếp:
"Nguyễn
Quang Thiều không bị sa vào bẫy chữ. Anh dành tâm sức lớn nhất để tập trung cho
giọng điệu. Chim không nói một chữ nào. Có ai đọc được chữ của chim đâu. Nhưng
mà giống nào hót ra giọng giống ấy. Nó không có nghĩa mà cuốn hút, mà tạo ra từ
trường, tạo ra sắc thái là nhờ có giọng điệu riêng. Với cái giọng riêng ấy nó tạo
ra xúc động của người nghe. Nguyễn Quang Thiều đã tạo được một giọng riêng, một
lối viết riêng. Người đọc nhận ra anh trong một rừng thơ đông đảo hiện nay. Đặc
điểm của cái giọng riêng ấy là Nguyễn Quang Thiều luôn giao hoán các khái niệm
và chẻ nhỏ cảm xúc. Tôi đọc Nguyễn Quang Thiều đọc đi đọc lại thấy anh ấy vừa
biết chẻ nhỏ vừa biết đào sâu vào cảm xúc. Đẩy cảm xúc lên.
Nguyễn
Quang Thiều rất quan tâm đến liên tưởng. Trên chuyến tầu thơ dặm trường ta
không biết tác giả sẽ đưa ta đến ga nào. Anh đưa ta đến ga nào thì ta biết ga
đó thôi. Cuộc hành trình đầy những bất ngờ.
Nguyễn
Quang Thiều tạo cơ hội tối đa cho sự tham gia của những mảng sống khác nhau.
Anh ban bố sự bình đẳng của các chi tiết. Các chi tiết chồng lên các chi tiết tạo
ra sự phức hợp ngay trong một câu thơ. Đây là một trong những cách làm mới thơ.
Chẳng hạn:
Bóng
tối gọi từ bên này đến bên kia cánh đồng
ngày
của trống, nhị, kèn đã cài then cửa
Ngày
của cờ ngũ sắc, cờ đuôi nheo, của phướn đã khép lại.
Hạt
đã gieo và phục kín trên con đường độc đáo của đói khát và hy vọng
Sự
nghi ngờ của đất đã trĩu nhẹ mở mắt và mũi đã thở đều đều.
(Chương
VIII - Nhịp điệu châu thổ mới)
Và:
“Nhưng
lúc này một bóng người cúi xuống bên chúng ta phả hơi lửa trong tiếng thì thầm:
–
Còn một hạt giống là còn cánh đồng
–
Còn một giọt nước là còn dòng sông
–
Còn một người có đức tin là cả thế gian được cứu rỗi”
(Bài
ca trong đêm cuối cùng của năm cũ
Nguyễn
Quang Thiều là đại bậy chữ: đại sáo ngôn, đại khoét lác, không một chút tình cảm
chẳng khác nào Inrasara. Nhiều
bài thơ anh ta viết có phần cực đoan đại ý:
-Còn
5 người Chăm tôi vẫn sống và viết
-Còn
3 người Chăm tôi vẫn sống và viết
-Còn
1 người Chăm tôi vẫn sống và viết.
-
Còn 1 người Chăm còn Tổ quốc Chăm
-
Không bao giờ đánh mất bản chất Chăm” (cũ - đại ngoa, đại ngôn, sáo rỗng, dễ
dãi...)
Nói
thế, viết thế thì bàn làm gì!
Đọc đoạn trích trên, bạn đọc cảm thấy Nguyễn
Quang Thiều viết lung tung, lang tang, mù mù, mịt mịt, không ra cái gì cả!
Cái
liên tưởng, cái tưởng tượng Nguyễn Quang
Thiều rất phàm phu, tục tĩu không có gì là thơ:
GIỌNG
H
...Cái
ổ trũng rực ấm trên tấm nệm
Nước
chảy mê man dưới H
Con
mèo sốt 42 độ
Giọng
H: mai sẽ rời khỏi căn phòng này
Giọng
H: ôi, chiếc giường...
Giọng
H: phía xa kia...
Giọng
H: một bộ phận sinh dục cô độc
Giọng
H: đang hồi phục ký ức..."
(Nguyễn
Quang Thiều)
Thẩm
mỹ thô lổ;
..."H
ngủ muộn. 10h13 phút chưa dậy.
Những
sự sống trôi qua chiếc giường.
Những
cái chết trôi qua chiếc giường.
Và
H nhìn thấy trong giấc ngủ
Một
tấm thân đàn ông nóng rừng rực
Trôi
qua chiếc giường và dừng lại
ở
một khoảng trên đầu
Lúc
10h13 một người đàn bà khác
Khoả
thân trong một chiếc giường
Đặt
ở giữa thành phố..."
Bài thơ viết lúc 10 h 13'
Hay:
..."
Trong
cơn mơ đói và buồn
Các
cô gái đẹp mặc váy cưỡi xe máy phóng qua
Như
dao sắc phất vào tôi tứa máu
Tôi
nấc lên một câu hỏi như người sặc khói
Rằng
nếu tôi lấy họ
Tôi
sẽ ngủ với họ thế nào
Và
chuyến xe tan tầm lại đến
Ọp
ẹp và bẩn thỉu như chiếc lồng vịt khổng lồ
Tôi
vội vã bước vào trong đó
Các
cô gái buôn chuyến đang ngoẹo đầu ngủ
Tóc
tai quấn áo sặc mùi cá khô
Giấc
mơ sẽ thế nào trong giấc ngủ thế kia
Và
lòng tôi nhói một câu hỏi
Rằng
nếu tôi lấy họ
Tôi
sẽ ngủ với họ như thế nào.
(Câu
hỏi cuối ngày)
Hữu Thỉnh tán thêm:
"Nhưng
quanh quất, quây tụ, ấn tượng nhất vẫn là cảnh quê, hồn vía quê. Đặc sắc nhất
trong thơ anh là cái hồn quê ấy. Đã có bao nhiêu người viết về quê, nhưng Nguyễn
Quang Thiều viết về quê theo kiểu khác, không giống ai. Sau này, câu thơ có nhiều
biến hóa, nhưng hồn quê thì vẫn không thay đổi. Anh tạo ra những cung bậc mới.
Tôi đặc biệt ấn tượng về cảm hứng này của anh. Nó làm tôi cảm động. Và lay thức.
Do đó, nhiều câu thơ của anh có vẻ Tây, nhưng hồn vía vẫn là Việt. Việt ở thi
liệu, ở cảm hứng, ở cái thiết tha, bịn rịn, da diết, nhói lòng.
Tôi
mang cơn mưa nham nhở màu xanh
Suốt
tuổi thơ không hay cỏ bị săn đuổi
Những
con dế bật càng xa, xa mãi
Mưa
giêng hai góa bụa khóc sang hè
Một
bài hát tình yêu của làng Chùa có thể xem là một ví dụ tiêu biểu về bước chuyển
của Nguyễn Quang Thiều. Ở đó có một cái gì đó rất quê, mà lại rất tỉnh. Nhưng
khi đọc xong, tôi quên mất quê hay tỉnh, mà chỉ thấy cái thiết tha, da diết,
day trở không yên của tác giả. Thay vào chỗ ta hỏi nhà thơ nói gì, ta khắc khoải
dò tìm tâm hồn anh thế nào? Tôi bỏ chữ bỏ câu để đi tìm, để thưởng thức hương vị
tâm hồn Nguyễn Quang Thiều. Với cách dò tìm đó, chúng ta hãy đi vào thế giới của
Châu thổ, từ từ, chậm rãi, trong sự bừng thức của cảm nhận."
Hửu Thỉnh tán thơ hồn vía quê của Thiều nhưng
không biết rằng, Thiều đã nhắc làng Chùa của Thiều hàng trăm vạn lần, viết về
làng Chùa, xứ Đoài hàng trăm vạn lần đã không ai hình dung ra làng Chùa, xứ
Đoài là gì chứ chưa nói chẳng để cho người đọc một lần rung động trước làng
quê!
Quang Dũng chỉ vài dòng:
..."Bao
giờ trở lại đồng Bương Cấn
Về
núi Sài Sơn ngó lúa vàng
Sông
Đáy chậm nguồn qua Phủ Quốc
Sáo
diều khuya khoát thổi đêm trăng...."
Tôi tin câu thơ này còn mãi nghìn năm, xứ
Đoài còn mài nghìn năm!
Nguyễn Quang Thiều không biết làm thơ!
Không ai đọc loại bà dằn Thiều viết ra. Nguyễn Quang Thiều chuyên làm vô lối -
một loại thơ không vần thời thượng. Không phải bây giờ, từ ngày thơ xưa, không
phải bên Tây, bên Tàu làm thơ không vần mà cha ông ta từ thượng cổ đã làm thơ
không vần. Vần, không vần không quan trọng, miễn là tác giả viết và gửi nhắn gì
cho người đọc. Thơ có Vần mà không có chút gì gửi gắm, tí gì triết lý, chẳng
rung động lòng người thì chẳng ai gọi là thơ:
"Bồ
quân bên suối chín vàng
Biến
thành chợ của họ hàng nhà chim
Đầu
têu tu hú chạy lên
Sẻ
con giục mẹ bỏ quên cả giày
Chào
mào chưa nếm đã say
Chim
sâu bận mọn nửa ngày mới sang
Anh
vũ mua bán đàng hoàng
Ăn
xong múa lượn cả làng cùng xem...."
(Chợ
chim -, Hữu Thỉnh)
Và:
"Ai
qua Lệ Thủy, Xuân Bồ
Bây
chừ binh trạm cải gù, gà choai!..."
(Âm
vang chiến hào - Lâm Huy Nhuận, Hữu Thỉnh)
Mấy câu của Hữu Thỉnh ở trên còn thua mấy câu
sau:
"Con
mèo, con chó có lông
Cây
tre có mắt, nồi đồng có quai"
Cha ông ta làm thơ không vần, thơ tự do từ khi
Mỹ chưa có mà đến nay đọc vẫn còn rưng rưng
..."Gẫm
nhân sự biết rằng cơ trị loạn;
Xem
hồ quang đã không dấu thanh du.
Con
lộc kia nào có phép toàn đâu, ông ngồi mã thượng hãy rình theo, còn quen thói nịnh
tà mà chỉ lộc;
Khóm
do nọ hẳn đến ngày thì cắt, kẻ muốn tình chung mà rửa sạch, bỗng buông tuồng
gian ác lại sùng do.
Đá
khiết bạch khó mài mầu xiểm nịnh;
Nước
thanh quang khôn lọt vết tham ô
"戰訟西湖賦 - Chiến tụng Tây Hồ phú" - 範泰- Phạm Thái
Cha
ông ta làm thơ không vần còn mãi đến nghìn năm:
...卒 能
以 大
義 而 勝
兇殘,
以 至
仁 而 易
彊 暴。
蒲 藤
之 霆 驅
電 掣 ,
茶 麟
之 竹 破
灰 飛 。
士氣 以
之 益 增,
軍 聲
以之 大 振
。
陳 智
山 壽 聞風
而; 褫 魄,
李 安
方 政 假
息 以 偷生
。
乘 勝
長 驅, 西
京既 為 我
有;
選 兵
進 取, 東
都 盡 復
舊 疆 。
寧橋 之
血 成 川,
流 腥 萬里;
窣 洞
之 屍 積
野 ,遺 臭
千 年 。
陳 洽
賊 之腹 心,
既 梟 其
首;
李亮 賊
之 奸 蠹,
又 暴 厥屍
。
王 通
理 亂 而
焚 者益 焚,
馬 瑛
救 鬥 而
怒者 益 怒
。
彼 智
窮 而 力盡,
束 手 待
亡;
我 謀伐
而 心 攻,
不 戰 自
屈。...
Tốt
năng:
Dĩ
đại nghĩa nhi thắng hung tàn,
Dĩ
chí nhân nhi dịch cường bạo.
Bồ
Đằng chi đình khu điện xế,
Trà
Lân chi trúc phá khôi phi.
Sĩ
khí dĩ chi ích tăng,
Quân
thanh dĩ chi đại chấn.
Trần
Trí, Sơn Thọ văn phong nhi sỉ phách,
Lý
An, Phương Chính giả tức dĩ thâu sinh.
Thừa
thắng trường khu, Tây Kinh ký vị ngã hữu;
Tuyển
binh tiến thủ, Đông Đô tận phục cựu cương.
Ninh
Kiều chi huyết thành xuyên, lưu tinh vạn lý;
Tốt
Động chi thi tích dã, di xú thiên niên.
Trần
Hiệp tặc chi phúc tâm, ký kiêu kỳ thủ;
Lý
Lượng tặc chi gian đố, hựu bạo quyết thi.
Vương
Thông lý loạn nhi phần giả ích phần,
Mã
Anh cứu đấu nhi nộ giả ích nộ.
Bỉ
trí cùng nhi lực tận, thúc thủ đãi vong;
Ngã
mưu phạt nhi tâm công, bất chiến tự khuất..."
Trọn
hay:
..."Đem
đại nghĩa để thắng hung tàn,
Lấy
chí nhân để thay cường bạo.
Trận
Bồ Đằng sấm vang chớp giật,
Miền
Trà Lân trúc chẻ tro bay.
Sĩ
khí đã hăng
Quân
thanh càng mạnh.
Trần
Trí, Sơn Thọ nghe hơi mà mất vía,
Lý
An, Phương Chính, nín thở cầu thoát thân.
Thừa
thắng đuổi dài, Tây Kinh quân ta chiếm lại,
Tuyển
binh tiến đánh, Đông Đô đất cũ thu về.
Ninh
Kiều máu chảy thành sông, tanh trôi vạn dặm
Tuỵ
Động thây chất đầy nội, nhơ để ngàn năm.
Phúc
tâm quân giặc Trần Hiệp đã phải bêu đầu
Mọt
gian kẻ thù Lý Lượng cũng đành bỏ mạng.
Vương
Thông gỡ thế nguy, mà đám lửa cháy lại càng cháy
Mã
Anh cứu trận đánh mà quân ta hăng lại càng hăng.
Bó
tay để đợi bại vong, giặc đã trí cùng lực kiệt,
Chẳng
đánh mà người chịu khuất, ta đây mưu phạt tâm công..."
(Ngô
Tất Tố dịch thơ)
Như tôi đã nhiều lần nói ở các chyên luận trước,
tiếng ta - phương Đông và phương Tây có khác nhau, ta phát âm gọi là "xỉ
âm" (âm phát ra từ răng), còn những nước Mỹ, Anh - phương Tây tiếng phát
ra gọi là "thực âm" (phát ra từ họng). Tiếng ta đơn âm, tiếng phương
Tây đa âm, nên trong làm thơ một từ của họ như một câu ngắn có vần điệu, nên vần
điệu trong thơ Tây không quan trọng; nhưng vần điệu trong thơ ta vô cùng quan
trọng. Nếu ta bỏ vần điệu là một lổ hỏng lớn!
Ví
dụ:
A
Minh họa Vô lối
ANH
America
Television
Eat
breakfast
Conversation
NGA
Школыa
Капиталa
Самолеты
до
свидания
PHÁP
Maison
comme
des cochons
porte
très
bon
TÀU
美国
电视
吃早餐
电报
VIỆT
Mỹ
Vô
tuyến
Ăn
sáng
Điện
đàm
Mấy chữ tiếng Viêt và tiếng Trung Quốc: Mỹ, Vô
tuyến, Ăn sáng, Điện đàm..., khô cứng, rời rạc, đọc ra không có ý vị gì. Nhưng
cũng những tiếng ấy đọc bằng tiếng Anh thì chúng ta cảm thây như nghe một bài
thơ tứ tuyệt bốn câu, bốn chữ, chính chu vần điệu:
America
Television
Eat
breakfast
Conversation
Phiên
âm:
(A
mê ri cần
Ti
li vi dần
It
bờ ret phát
Công
vơ xơ xần!)
Tiếng
Nga, tiếng Pháp ...cũng vậy!
Nguyễn
Quang Thiều viết bài vô lối nào cũng phải dịch ra thơ Việt mọi người mới đọc nổi!
Tập "Sự mất ngủ của lửa" (1992), "Những người đàn bà gánh nước
sông" (1995), " Những người lính của làng" (1996), Thơ Nguyễn
Quang Thiều (1997), "Nhịp điệu châu thổ mới "(1997), "Bài ca những
con chim đêm" (2000)...
Tất
tần tật thơ vô lối của Nguyễn Quang Thiều đều dây cà dây muống, lảm nhảm, triết
lý nửa mùa, vu vơ, nhạt nhẽo, xơ cứng, ôm đồm, ồn ào, vô bổ, nhăng cuội, gượng
gạo, láo nháo, nhạt nhèo, thừa chữ, thiếu lời, thừa câu thiếu ý, bẩn thỉu, tiền
dâm dật, dâm dật...Tất tần tật phải dịch ra thơ Việt (!)
Nguyên
bản
Trong
quán rượu rắn
tặng
D.K.M
Những
con rắn được thủy táng trong rượu
Linh
hồn chúng bò qua miệng bình cuộn khoanh đáy chén
Bò
tiếp đi… bò tiếp đi qua đôi môi bạc trắng
Có
một kẻ say gào lên những khúc bụi bờ
Một
chóp mũ và một đôi giày vải
Mắt
ngơ ngơ loang mãi đến chân trời
Nhóm
u uất trong những vòm tháp cổ
Người
suốt đời hoảng hốt với hư vô
Như
đá vỡ, như vật vờ lau chết
Thơ
âm âm, thơ thon thót giật mình
Kinh
hãi chảy điên cuồng như lửa liếm
Ngửa
mặt cười trong tiếng khóc mộng du
Bò
nữa đi… bò nữa đi hỡi những linh hồn rắn
Lọc
độc từng tia phun chói trong bình
Người
không uống rượu mà uống từng ký ức
Mạch
máu căng lên những vệt rắn bò
Đêm
vĩ đại chôn vùi trong quán nhỏ
Rừng
mang mang gọi từng khúc thu vàng
Rượu
câm lặng chở những linh hồn rắn
Có
một kẻ say hát lên bằng nọc độc trong mình
Thị
xã Hà Đông, tháng hai năm 1992
Đỗ
Hoàng dịch ra thơ Việt:
Trong
quán rượu rắn
Lũ
rắn độc bị đem tửu táng.
Hồn
bò quanh đáy chén, miệng bình.
Bò
nữa đi qua môi bạc trắng.
Kẻ
say gào giọng rượu thần kinh!
Áo
quần, mũ, tất, giày trút bỏ,
Mắt
ngu ngơ hoang mạc chân trời.
Nỗi
u uất ứ vòm tháp cổ
Với
hư vô lảm nhảm suốt đời!
Như
đá vỡ, như vật vờ lau chết,
Hồn
rên lên, tim thon thót nhói lòng.
Kinh
hoàng chảy điên cuồng nhu¬ lửa liếm.
Ngữa
mặt cười, khóc mộng du không!
Bò
nữa đi! Hỡi những linh hồn chết!
Nọc
độc phun bẫm cả đáy vò
Không
uống rượu mà uống từng ký ức
Mạch
máu căng lên những vệt rắn bò!
Đêm
dài rộng chôn vùi trong quán vắng.
Rừng
mang mang gọi từng khúc thu vàng,
Rượu
câm lặng chở bao linh hồn rắn
Bằng
nọc độc mình, kẻ xỉn hát rất hăng!
Hà Nội ngày 13 – 1 - 2008
Lịch
sử một tấm thảm Thổ Nhĩ Kỳ
Nguyễn Quang Thiều
Người
hướng dẫn: Được dệt thủ công bởi một người đàn bà mù Thổ Nhĩ Kỳ
Người
mua: Mua lại từ một ông già da đen Cuba ở Havana năm 1986
Chủ
nhân: Quà tặng của con trai tôi. Được treo trên bức tường này 21 năm.
Lúc
gần sáng tiếng những cành khô gãy
Những
con nai cái mùa động đực
Chủ
nhân bức thảm 87 tuổi tỉnh giấc uống trà nguội
Những
con nai đực ngùn ngụt
Ngôi
nhà như không bao giờ mở cửa
Một
bà già đi tiểu lần thứ 5, nói:
“Mẹ
đau lắm”
21
năm tấm thảm không thay đổi chỗ treo
Người
đàn ông 50 tuổi thường trở về và đứng
Trong
ngôi nhà nửa bóng tối
Tràn
ngập tấm thảm tiếng hô hoán
Và
phía sau tấm thảm
Một
lưỡi dao lạnh lùng đợi
Và
một cái chảo sùng sục sôi
Người
hướng dẫn: Những ngón tay người đàn bà mù Thổ Nhĩ Kỳ giờ bị liệt
Người
mua: Ông già da đen Cuba đã tự vẫn
Chủ
nhân: Tôi chỉ nhớ gương mặt con trai tôi khi nó mở bức thảm ra
Có
một người lúc nào cũng rét
Đứng
nhìn tấm thảm
Hai
bàn chân bị đông cứng trong vũng máu
Ở
chân tường
Người
hướng dẫn: (đã bỏ nghề)
Người
mua: Hình như không phải tấm thảm tôi đã mua
Chủ
nhân: Tôi nhìn thấy những người thân đã chết chạy nấp sau những gốc cây trong tấm
thảm
Bây
giờ là năm thứ 22."
Đỗ Hoàng dịch ra thơ Việt:
"Lịch
sử tấm thảm Thổ Nhĩ Kỳ
Tấm
thảm Thổ thăng trầm thiên biến,
Hướng
dẫn viên dẫn chuyện rõ ràng:
-
Thảm này dệt sợi dọc ngang,
Một
bà Thổ có tay vàng làm ra.
Người
mua lại một ông già,
Da
đen quốc tịch Cu Ba rạch ròi.
Ở
Ha va na hẳn hoi.
Vào
năm tám sáu cũng thời mới đây.
Chủ
nhân nói: - Tấm thảm này,
Quà
con trai tặng cho thầy u thương!
Hai
mốt năm treo trên tường.
Cỏ
cây muông thú lạ thường hiển linh (1)
Sớm
khuya vang vọng quanh mình,
Tiếng
cây, tiếng suối thập thình đâu đây.
Tiếng
nai gọi bạn hao gầy,
Mùa
sinh sôi giục đàn bầy đến nhanh.
Chủ
nhân tám bảy xuân xanh.
Sáng
xơi trà nguội đã thành thói quen.
Những
con nai đực khát thèm,
Nhưng
nhà đóng cửa cài then chặt rồi.
Bà
già năm lượt đi ngoài,
Lưng
còng chân yếu kêu lời xót đau.
Thảm
không dịch chuyển đi đâu,
Hai
mốt năm vẫn gắn đầu chỗ treo.
Ông
năm mươi tuổi dáng nghèo,
Trở
về thường đứng vai đeo túi hờ.
Ngôi
nhà tối sáng mập mờ,
Tràn
lên tấm thảm tiếng hô hoán đầy.
Phía
sau tấm thảm ai hay?
Lưỡi
dao sắc lạnh đợi ngày bén xơi.
Một
cái chảo sùng sục sôi,
Hướng
dẫn viên: - Bà Thổ quả thiệt thòi tấm thân.
Mù
loà liệt cả tay chân.
Người
mua lại kể ngọn ngành xảy ra.
Ông
già da đen Cu Ba,
Khốn
cùng tự vẫn thế là đi tong.
Chủ
nhân bày tỏ thật lòng:
-
Nhớ con trai gương mặt hồng như hoa.
Chính
lúc tấm thảm mở ra,
Một
người lạnh cóng như là chết khô
Đứng
nhìn tấm thảm trống trơ,
Hai
chân đông cứng lặng tờ máu tươi.
Hướng
dẫn viên bỏ nghề rồi.
Người
mua quên bẵng một thời mình mua.
Chủ
nhân: Tôi bạn khiếp chưa?
Người
thân chết cháy chẳng lưa thứ gì,
Gốc
cây trong thảm thâm sì.
Bây
giờ là năm hai nhì ai ơi!
(1)
Người dệt tài tình đến mức cây cỏ, muông thú trog tấm thảm trở thành sinh linh
có sức sống ngoài đời chạy nhảy.
Hà
Nội, ngày 7 - 3 - 2010
Đỗ
Hoàng
Nguyên
bản:
Những
người đàn bà gánh nước sông
Những
ngón chân xương xẩu, móng dài và đen toẽ ra như móng chân gà mái
Đã
năm năm, mười lăm năm, ba mươi năm và nửa đời tôi thấy
Những
người đàn bà xuống gánh nước sông
Những
bối tóc vỡ xối xả trên lưng áo mềm và ướt
Một
bàn tay họ bám vào đầu đòn gánh bé bỏng chơi vơi
Bàn
tay kia bấu vào mây trắng
Sông
gục mặt vào bờ đất lần đi
Những
đàn ông mang cần câu và cơn mưa biển ra khỏi nhà lặng lẽ
Những
con cá thiêng quay mặt khóc
Những
chiếc phao ngô chết nổi
Những
người đàn ông giận dữ, buồn bã và bỏ đi
Đã
năm năm, mười năm, ba mươi năm và nửa đời tôi thấy
Sau
những người đàn bà gánh nước sông và lũ trẻ cởi truồng
Chạy
theo mẹ và lớn lên
Con
gái lại đặt đòn gánh lên vai và xuống bến
Con
trai lại vác cần câu và cơn mưa biển ra khỏi nhà lặng lẽ
Và
cá thiêng lại quay mặt khóc
Trước
những lưỡi câu ngơ ngác lộ mồi."
Đỗ
Hoàng dịch ra thơ Việt:
Gánh
nước sông
Ngón
chân tõe như chân gà mái
Quá
nửa đời thơ dại tôi trông
Bà
cô đi gánh nước sông
Mái
tóc lơi bối bềnh bồng trên lưng
Tay
họ bấu giữa chừng đòn gánh
Còn
tay kia níu mảnh mây mơ
Sông
trôi úp mặt vào bờ
Đàn
ông mưa biển lặng tờ ra đi
Cá
thiêng khóc rầu ri quạnh quẻ
Chiếc
phao ngô cô lẻ chết tàn
Đàn
ông giận dữ tâm can!
Rời
xa không có hỏi han nửa lời
Đã
quá nửa đời trôi tôi thấy
Bầy
trẻ thơ níu váy u già
Lớn
lên ở chốn bùn sa
Gái
thay mẹ gánh nghèo qua bến thuyền!
Con
trai lại triền miên ẩn hiện
Lại
ra đi mù mịt vụt ai mong
Cá
thiêng quay mặt khóc ròng
Lưỡi
câu ngơ ngác kẻ trông lộ mồi!
Hà Nội 2008
Khách quan mà nói, khi mới bước chân vào làng
văn, Nguyễn Quang Thiều viết còn đọc được, có câu thơ hay: " Nàng Tô Thị bồng
con đi lối tắt" nhưng khi chính thức nhập vào làng văn gặp các thợ kim
hoàn giả cầy như Hữu Thỉnh, Chính Hữu, Anh Ngọc...Thiều đưa chỉ vàng thật của
mình cho các gian gia giả trang mài dũa thành ra cục chì đen như cục cứt chó,
cho chó không ăn!
Còn Hữu Thỉnh, Trùm Sõ trong đám thợ kim hoàn
giả trang, vàng giả ấy cùng với Hội Nhà văn Việt Nam là Tội Đồ của văn chương
dân tộc, tổ quốc Việt Nam đã thao túng, bao che, lăng xê tặng giải cho các tác
giả, tác phẩm phi văn chương như: Thanh Thảo, Nguyễn Quang Thiều, Mã Giang Lân,
Từ Quốc Hoài, Nguyễn Đăng Điệp, Mai Văn Phấn, Đỗ Doãn Phương, Đinh Thị Như
Thúy, Phạm Đương...
Hà Nội tháng 8 / 2020
Đ - H
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét