Đỗ Hoàng áo trắng, ( thứ 2 phải sang)
PHÊĐÔR MIKHAILÔVÍCH ĐÔXTÔIEPXKI - (Fyodor Mikhaylovich Dostoyevsky - Федор
Михайлович Достоевский ) VỚI TÁC PHẨM: "ANH
EM NHÀ KARAMMAZỐP" (Братья Карамазовы)
Đỗ
Hoàng
Đôxtôiepxki - Достоевский , chiếm một vị trí lỗi lạc trong văn học
Nga, như một người kế tục truyền thống nhân đạo và hiện thực, như một nhà văn
phê phán quyết liệt xã hội tư sản - địa chủ, cất cao tiếng nói mạnh mẽ chở che
con người bình dị thường bị cuộc đời ô trọc làm nhục, giày xéo và đày đọa, luôn
luôn bị coi khinh, bị xúc phạm.
Đôxtôiepxki
đã tạo nên một loại tiểu thuyết mới và đã nêu lên một cách hết sức đầy đủ và
sâu sắc những mâu thuẫn của đời sống hiện đại và những rung động sâu kín của
tâm hồn. Đó là tiểu thuyết bi kịch, tiểu thuyết của những xung đột dữ dội, gay
cấn, sâu sắc, căng thẳng... Với sự chính xác như nhà phẫu thuật, Đôxtôiepxki đã
khám phá ra đời sống nội tâm sau kín của con người, chỉ ra những điều kiện xã hội
hình thành nên tính cách của con người.
Sáng tác của Đôxtôiepxki có ý nghĩa quốc tế
lớn lao. Cho đến ngày nay người ta mới thấy hết tầm vóc vĩ đại của nhà văn Nga
này. Họ mới đánh giá được phần nào quy mô triết lý, cái nhìn sâu sắc soi thấu
những miền bí ẩn trong tâm tư tình cảm vốn sống động và thật là đa dạng của con
người. Các nhà văn trên thế gới thuộc tất cả các trường phái: lãng mạn, hiện thực,
hiện sinh chủ nghía đều khai thác mặt này, hay mặt khác ở trong tác phẩm bất hủ
của Đôxtôiepxki là để tự suy tôn mình lên.
Bởi vì ở Đôxtôiepxki không một vấn đề nào, không một ý tưởng nào mà
không được soi rọi, chiếu sáng, phân tích đầy đủ của các nhân vật của
Đôxtôiepxki và được đẩy lên ở mức độ căng thẳng.
Thế nhưng, ngay ở quê hương, tổ quốc của
Đôxtôiepxki, người ta vẫn chưa đánh giá hết tầm vóc của Đôxtôiepxki. Sách của
ông in ra ít. Những người nghiên cứu về ông không nhiều.Ở nước ta (Việt Nam),
nhất là miền Bắc trước đây khó có thể
tìm ra thấy sách của Đôxtôiepxki. Tình hình cởi mở vài năm lại đây cho
ta được đọc một vài tác phẩm của ông được
chuyển qua Việt ngữ. Nhưng Đôxtôi epxki rất phức tạp. Tác phẩm của ông đọc rất
hấp dẫn nhưng thật khó hiểu. Đọc vài ba lần cũng chưa có thể nói là đã hiểu hết
ý tình của Đôxtôiepxki gửi gắm, kiến giải. Việc khó này không chỉ khó đối với
người Việt Nam đọc, nghiên cứu về Đôxtôiepxki mà ngay tại nước Nga và phương
Tây - những học giả lớn cũng có những ý
kiến đánh giá khác nhau.
Bản thân tôi được đọc Đôxtôiepxki, làm luận
văn về Đôxtôiep xki là một niềm vinh hạnh nhưng cũng một việc làm quá sức và
trình độ của mình. Nhưng là người yêu mến Đôxtôiepxki, người sùng bái ông, tôi
vẫn mạnh dạn nêu lên những suy nghĩ, kiến giải của mình khi làm luận văn về
Đôxtôiepxki.
Đôxtôiepxki để lại cho đời ssau hàng chục
kiệt tác, hàng chục nhân vật mang tầm vóc thế kỷ. Nhân vật của ông sáng tạo ra
khổng lồ về mọi mặt...Những nhân vật vị tha, trong sạch, cao ngạo, điển hình
cho tính cách người Nga và của nhân loại. Với những nhân vật phản diện thì ích
kỷ, hẹp hòi, tàn nhẫn thực thi cái ác đến cùng. Với tài năng vĩ đại, với những
vốn sống trải nghiệm phong phú, với trái tim giàu nhân hậu, Đôx tôiepxki đã ạo
ra những nhân vật điển hình biệt lập, không ai giống ai. Một
Raxkôlminôv tham quyền lực, thích làm
cái ác, một Hoàng thân Mưskhin luôn luôn day dứt, xót thương trước cái cảnh đời,
cảnh người đau khổ quằn quại, một Xmerđiakôp căm thù con người, một I van
Fiôđôvits báng bổ đòi bỏ Chúa, một Đimitri
Fiôđô vits cuồng loạn ;một Fiôđor Pavlôvits ham nhục dục. Và một Zôxima
kính Chúa sáng danh với tấm lòng quảng đại, vị tha, trong sạch...
Tôi không thể phân tích hết các nhân vật nổi
tiếng của Đôxtôiepxki mà chỉ đi sau phân tích đánh giá thấu hiểu nhân vật
Zôxima - Nhân vật mà Đôxtôiepxki gửi gắm nhiều nỗi ước mong, lòng từ thiện của mình cho hậu thế. Zôxima là nhân vật trung tâm chiếm một phần
quan trọng trong kiệt tác " Anh em nhà Karamazôp" của nhà văn. Để hiểu
thấu nhân vật Zôxima, chúng ta không thể không tìm hiểu thêm cuộc đời riêng của
Đô xtôiepxki. Bởi vì khi xây dựng nhân vật
cha Zôxima, Đôxtôiepxki đã lấy một phần cuộc đời của mình lăn lộn trong bão táp
đời thật, lấy khát vọng lý tưởng của
mình làm nguyên mẫu cho nhân vật điển hình này. Có thể nói cha Zôxima là hiện
thân cả Đôxtôiepxki cả thời trẻ trai cho đến thời cuối đời. Cha Zôxima hiện
thân Đôxtôiepxki cả về hình mạo, cả về tâm tính, ước vọng sống, cả về nỗi khổ,
niềm đau trong cuộc đời.
Đôxtôiepxki sinh ngày 30 - 10 - 1821 (có
sách ghi là 11 -11 - 1821) tại Matscơva. Năm 17 tuổi, ông vào trường công binh
tại Petecbourg. Năm 1844 giải ngũ theo nghiệp văn. Ông thành công ngay tác phẩm
đầu tay: Dân nghèo năm 1846 . Năm
Đôxtôiepxki 27 tuổii bị bắt giữ vì ông tham gia vào một nhóm chống lại chính
quyền Sa hoàng và bị đày đi Xibiri . Sau bốn năm khổ sai, ông
phục vụ với tư cách là người lính binh nhì tại Omask. Năm 1857, kết duyên với một
góa phụ mắc bệnh lao Marie Isaeva. Năm
1860 trở lại Petecbourg. Năm 1862 thăm Tây Âu. Ngoài 40 tuổi kết duyên với Anna
Grigorievna. Anna Grigorievna là người vợ hoàn hảo, người thơ ký tận tụy của
Đôxtôiepxki. Ông mất tại Petecbourg ngày 28 - 1 - 1881.
Từ khi sinh thành cho đến khi mất, Đôxtôiepxki
sống trong một thế kỷ nước Nga sôi sục với những cuộc khởi nghĩa, cuộc biểu
tình. Dư âm của những cuộc đấu tranh thế kỷ trước như vẫn còn vang vọng. Chế độ
Sa hoàng ngày càng tỏ rõ sức mạnh chuyên chế của mình. Ngục thất của chính quyền
phong kiến, tư bản đang mở rộng để tống giam những người chống lại chế độ đương
thời. Đôxtôiepxki đã tham gia vào phong trào khởi nghĩa, hoạt động trong những
hội kín chống lại chính quyền đương thời. Mục kích được những cảnh sống của những
kẻ bạo loạn, chính mình ông chứng kiến và sống trong môi trường của một người tử
tù giảm án. Đôxtôiepxki thất vọng trước cái ác và có phần bất lực khi thấy cái
ác hoành hành thế gian. Câu hỏi suốt đời trăn trở trong cõi lòng, cõi tâm linh
sâu xa của Đôxtôiepxki là nỗi thống khổ của con người. Làm thế nào để cứu vớt
con người? Cái thiện cứu vớt con người hay cái ác? Có Chúa không? Những kẻ tự
xưng là ân nhân của nhân loại, kẻ ấy là ai? Những kẻ đao phủ, những kẻ khoác áo
đấu tranh cho tự do, những kẻ ấy có phải là ân nhân của nhân loại không? Con đường
đến vương quốc cái thiện là con đường như thế nào? Đó là câu hỏi vĩnh cửu suốt
đời Đôxtôiepxki nung nấu, trăn trở, mong muốn bày giải. Và chính kiệt tác
"Anh em nhà Karammarốp", tác phẩm vĩ đại nhất của Đôxtôiepxki tổng kết
cả cuộc đời viết văn của ông. Nó tụ hội tất cả những ý tưởng mà Đôxtôiepxki ấp ủ,
gửi gắm và bày giải. Nhân vật cha Zôxima chính là câu trả lời co bao nhiêu năm
Đôxtôiepxki gửi gắm. Chính cái thiện hiện thực và cái thiện lý tưởng, và một đấng
Chúa cứu thế sẽ là ân nhân cứu rỗi con người ra khỏi u mê, lầm lạc, ra khỏi cái
ác.
Nhân vật cha Zôxima hiện lên trong tác phẩm hết
sức hiền minh và hết sức sáng chói. Ta biết rằng toàn bộ nhân vật của
Đõtôiepxki là sự " tự ý thức" (1), nhân vật của Đôxtôiepxki là một
hàm số vô tận, không một giây nào trùng hợp với bản thân mình. Xây dựng nhân vật
cha Zôxima, Đôxtôiepxki để cho nhân vật phát triển theo sự tự thân vận động như
tiến trình phát triển khách quan của nó. Cha Zôxima đối lập với tất cả các nhân
vật khác trong tác phẩm, những, nhân vật trác táng như Đimitri Fiôdôrôvits, ham
nhục dục như Fiôđô Pavlôvits, mạt sát Chúa như
Ivan Fiôdôrôvits, hoan lạc như Grusence... và cũng khác cả Aliôsa, người
con thành kính của Chúa mà Zôxima hết lòng yêu mến. Hai nhân vật trung tâm của
lòng vị tha, của tình nhân ái còn sót lại giữa một cuộc đời nhăng nhúc, giữa một
gia đình ô trọc. Nhưng hai tấm lòng, hai tâm hồn, hai nhân cách rất khác nhau,
rất độc đáo, không trộn lẫn nhau, mặc dầu rất hóa đồng với nhau.. Đo là thành
công của Đôxtôiepxki khi xây dựng nhân vật cha Zôxima. Cha Zôxima hiện thân của
cái thiện. Cái thiện được chắt lọc được trắc nghiệm từ cuộc sống thực, cuộc sống của những người
trần mắt thịt trên trái đất này, chứ không phải một cái thiện lòng nhân từ từ
đâu đâu ở cõi xa xăm hay cao vời! Lòng nhân ái của Aliôsa thật tuyệt vời và thật
khó tìm. Chỉ thoáng qua vài cử chỉ của nhân vật Aliôsa là chàng trai được
Đôxtôiepxki dành cho nhiều thiện cảm. Aliôsa là một bông sen trong vũng bùn nhà
Karammazốp. Aliôsa yêu con người nhưng không xa lạ với những khát vọng của con
người. Anh có lòng nhân ái trắng trong, đẹp đẽ. Nhưng có một điều khác cha
Zôxima là Aliôsa chưa trải qua trường đời thương khó.Mà cái trường đời thương
khó kia mới là cái cám dỗ thử thách tấm lòng nhân ái của con người. Cái trường
đời kia còn thử thách cả Chúa Cứu thế anh minh nữa. Aliôsa tuyệt hảo như vậy,
nhưng chưa phải hiện thực cuộc đời. Mà hiện thực cuộc đời không phải là con cừu
non.
Cha Zôxima thì ngược lại. Cha Zôxima từ trong
bùn đen cuộc đời hóa thân để đến với cái thiện, để có lòng nhân ái. Lòng nhân
ái có mắt, hiền minh; lòng nhân ái được tu luyện nên thành chính quả. Chính điểm
này nó thật hơn lòng nhân ái của Aliôsa. Mặc dầu lòng nhân ái của Aliôsa cũng
thật cao đẹp. Nhưng chính cha Zôxima mặc dầu rất yêu quí Aliôsa coi Aliôsa như
người con tinh thần của minh, nhưng cha Zôxima là người từng trải nghiệm cuộc đời,
tu hành nên chính quả, hơn ai hết, cha hiểu muốn có lòng nhân ái, muốn từ thiện,
từ tâm, muốn trở thành đấng cao siêu thì
người tu hành cũng phải sống trong đời thật như những kiếp người trần mắt thịt
khác. Vì hiểu hết các lẽ tự nhiên của tạo hóa sinh thành, công phu, công đức
như vậy nên Trưởng lão Zôxima khuyên Aliô sa: - Con có trách nhiệm vô cùng lớn
lao phải làm trọn trong đời, con phải lưu lạc nhiều, con phải lấy vợ. Con phải
chịu đựng trước khi trở lại tu viện. Chúa Ki tô ở trong con. Hãy hết lòng vì
Chúa. Chúa sẽ che chở cho con. Con phải trải qua nỗi đau xót lớn lao và sẽ hạnh
phúc trong nỗi đau xót ấy... Hãy tìm hạnh phúc trong khổ đau".
Cha Zôxima đã sống thực như thế. Để có được
chức Trưởng lão trong giới tu hành, để có khả năng ngoại cảm lần đầu tiếp xúc với
người nào đó, Trưởng lão đã đoán ra được người đó cần gì, có nỗi đâu khổ như thế
nào, những điều bí mật của họ, cha đền
biết và chở che, ngay cả những kẻ phạm tội, Zôxima cũng quyến luyến bởi cha
Zôxima đã từng lăn lộn, trải nếm trong cuộc đời.
Đấy chính là những thành công nhất của
Đôxtôiepxki khi xây dựng nhân vật cha Zôxima... Đôxtôiepxki không thần thánh
hóa những người tu sĩ. Dù người ấy đã thành đạt trong đường khổ tu. Đôxtôiepxki
nhìn những vị chân tu theo cách nhìn, cách nghĩ của ông. Đôxtôiepxki hiểu thấu
cuộc đời trần tục hơn.
Cha Zôxima trước khi trở thành vị chân tu đạo
cao đức trọng, Cha đã sống một cuộc đời thường dữ dội như bao kiếp đời thường
khác trong một xã hội mà cái ác ngự trị. Cha đã đăng lính và đã trở thành sĩ
quan. Cha đã từng làm việc ác, đã từng đánh người. Đánh gã lính hầu Afanaxi của
mình. Cha là sĩ quan thiếu úy Zôxima. Thời sống trần tục, Zôxima sống như tất cả
những người cùng giới: Rượu chè, trai gái, phá phách, ngỗ ngáo. Zôxima đã từng
buông thả sống trong hưởng lạc với tất cả ham muốn của tuổi trẻ, vô chừng mực
như không biết dừng lại. Cuộc đời thực là miếng đất màu mỡ cho cái ác sinh sôi
nảy nở. Nhưng cái gì để cho cha Zôxima
thức tỉnh? Đến đây, ta thấy Đôxtôiepxki không ngại ngần nói rằng sự cảm
hóa đó chính là lòng lành của Chúa.
Zôxima may mắn ham đọc sách và có được cuốn Kinh Thánh. Chính nhờ cuốn sách
này, đã thức tỉnh ở trong cõi tâm thức cho một kẻ sống giữa đời mà cái ác được
tung hoành. Chính lần gây đổ máu người (máu Afanaxi) Zôxima đã tỉnh ngộ. Zôxima bớt đi một lần gây
đổ máu nữa. Chính nhờ sự sám hối ấy mà
đã cứu một mạng người vô tội, cứu một gia đình đang hạnh phúc. Zôxima kêu lên: " Mẹ ơi! Ruột thịt của
con ơi! Đúng là mỗi người đều có lỗi với tất cả mọi người và về mọi người. Có
điều là người ta không biết đó thôi. Nếu người ta hiểu ra thì trần gian tức khắc
sẽ là Thiên Đường. Tôi sắp giết một con người nhân hậu, thông minh".
Và Zôxima để cả bộ lễ phục giập trán dưới
chân gã hầu của mình xin tha thứ. Lòng nhân ái của vị trưởng lão có từ mầm móng
ngay lúc ấy. Chính cái giáp trán sám hối lần đầu tiên của kẻ làm việc ác bắt đầu
chuẩn bị đi vào con đường thiện được giữ gìn mãi suốt đời vị chân tu. Sau này,
khi Đimitri Fiôđôrôvits sắp làm việc
hung hãn (trưởng lão Zôxima nhận ra bằng trực giác) Cha Zôxima đã sụp lạy trước
Đimitri như vậy. Đấy chính là cái thiện đã chiến thắng cái ác ngay trong lòng
cái ác. Cái thiện có trong cõi tâm linh con người. Con người ta bao giờ cũng có
hai mặt. Nho giáo cho rằng: " Nhân chi sơ tính bản thiện" (2) là có hàm nghĩa của nó đây". Trong
con người cái ác, cái thiện đan xen. Phải làm cho cái thiện thắng cái ác. Đó
chính là ý đồ của Đôxtôiepxki khi xây dựng nhân vật trưởng lão Zôxima...
Nhân vật trưởng lão Zôxima của Đôxtôiepxki
khác xa cha Phrôlô trong "Nhà thơ Đức Bà Paris" của Vichtô Huygô, nhà
văn Pháp; khác cha Ral trong tiểu thuyết
"Những con chim ẩn mình chờ chết" của nhà nữ văn người Úc Colleen McCulough . Cha
Phrôlô trong tiểu thuyết "Nhà thơ Đức Bà Paris" của Vích to Huy gô được
nhà văn này xây dựng công phu, thật thành công, nhưng cha Phrôlô khác cha
Zôxima. Cha Phrôlô không đi trọn con đường
tu hành của mình. Từ vị chân tu, từ kẻ làm việc thiện ban lòng nhân ái
cho chúng sinh, cha Phrôlô trở thành kẻ giết người vì lòng ghen tức, đố kỵ mà
kiếp tu hành chưa gột sạch. Conn đường tu hành thất bại của cha Phrôlô đi ngược
lại với con đường của cha Zôxima.
Cha Phrôlô thông minh, uyên bác thâu tóm tri
thức của nhiều tri thức đương thời. Trí tuệ cha phi thường. Cha đi vào con đường
tu hành khi còn trai trẻ. Tuổi trẻ của cha trôi đi trong sự say mê học tập,
nghiên cứu, muốn chiếm lĩnh nhiều bộ môn khoa học. Nhưng cũng từ đó cha Phrôlô
dần dần mất lòng tin vào Chúa, vào các bậc thánh thần. Bản thân sống ép xác từ
nhỏ, thiếu tình thân gia đình, thiếu tình đồng loại, Phrôlô sống như thiếu tính
tự nhiên của con người, trái hẳn với mọi quy luật sinh vật. Phrôlô trở thành một
con người khô khan lạnh lùng, có khi đạo đức giả. Nguy hiểm vô cùng khi một bộ
óc thông minh mà thiếu lòng nhân ái. Chính cái đó làm cho Phrôlô trở nên vị kỷ,
nhiều thủ đoạn độc ác tinh vi. Cuối cùng không kiềm chế bản năng nhục dục mà
thượng đế đã ban cho "loài sâu bọ", Phrolo đã trở thành một kẻ sát
nhân. Phê buýt một chàng sĩ quan chết dưới lưỡi dao oan nghiệt của Cha - Phó
giáo chủ Phrôlô là sự lên án mạnh mẽ của Vich to Huy gô đối với cái ác.
"Phó Giám mục Claude Frôllô tuyệt vọng đến mức mất cả lý trí và
nhân tính. Hắn phát hiện ra Esméralda đang trú ẩn trong nhà thờ nên đã ép buộc
và đe dọa cô. Với sự che chở của Quasimodo, Esméralda vẫn sống bình an và vẫn
yêu Phoebus. Frollo cho thi sĩ Gringoire đến để lừa cô ra ngoài, một mặt hắn lại
báo cho bọn cảnh binh biết để truy bắt. Frollo đã đặt điều kiện buộc Esméralda
phải ưng thuận mình, bằng không ông sẽ giao cô cho bọn cảnh binh đang truy đuổi
cô ráo riết. Esméralda quyết chịu chết chứ không ưng thuận nên Frollo đã giao
cô cho một bà ẩn tu điên dại đã tự chôn mình trong ngôi mộ lộ thiên từ khi đứa
con gái của bà bị người Bohémien bắt cóc và để lại một đứa trẻ dị dạng (bà đã
đem đứa trẻ dị dạng đó để trước thềm nhà thờ Đức bà, Frollo đã đem đứa trẻ về
nuôi, đó là Quasimodo). Vì thế người ẩn tu này rất ghét bọn Bohémien nên Frollo
nghĩ rằng Esméralda sẽ bị bà hành hạ cho đến chết. Nhưng sau đó, hai mẹ con đã
nhận ra nhau nhờ vật kỷ niệm (đôi giày của trẻ con mà Esméralda luôn mang bên
người là do mẹ làm cho). Cuối cùng, cảnh binh đã tìm được nơi ẩn nấp của hai mẹ
con. Người mẹ hết sức bảo vệ con, nhưng Esméralda vẫn bị bắt đi và bà đã chết
ngay vì quá tuyệt vọng. Esméralda bị đem đi treo cổ một lần nữa. Quasimodo biết
được đầu đuôi câu chuyện và khi chứng kiến tận nụ cười thâm độc của phó Giám mục
khi thấy Esméralda bị đưa ra xử tử, đã xô Frollo ngã từ trên tháp chuông nhà thờ
xuống đất. Sau đó, Quasimodo đã ôm xác Esméralda vào cùng chết chung trong hầm
mộ. Tám tháng sau, ngôi mộ bị quật lên. Khi thấy 2 bộ xương, người ta đã định
tách họ ra. Xương của Quasimodo tan thành bụi."
Cha Ral trong tiểu thuyết "Những con
chim ẩn mình chờ chết" (Tiếng chim hót trong bui mận gai) - (The Thorn Birds) của Colleen
McCullough thì lại tinh vi hơn, táng tận lương tâm hơn. Cha Ral giữ kín hành động
của mình. Đẩy hành động tội lỗi của mình cho kẻ khác chịu tội. Đứa con của cha
Ral để lại cho tiểu thư Mê gil, dù tiểu thư tự nguyện nhưng là một việc làm vô
luân mà giới tu hành không cho phép!
"Xuyên suốt tiểu thuyết Tiếng chim
hót trong bụi mận gai là câu chuyện tình giữa Meggie và vị cha xứ Ralph. Meggie
cố quên đi tình cảm của mình bằng cách kết hôn với Luke O'Neill - một công nhân
trong trang trại, nhưng chẳng bao lâu sau cô và cha Ralph lại đoàn tụ, cuộc
tình của họ đã gây ra nhiều bi kịch.
Chuyện tình
của Meggie với cha Ralph chỉ có thể diễn tả trong bốn chữ "nỗi đau tuyệt
vời" và để có được sự tuyệt vời đó, họ đã phải trả giá cả cuộc đời. Như
trong lời đề tựa đã viết: "Có một truyền thuyết về con chim chỉ hót có một
lần trong đời, nhưng hót hay nhất thế gian. Có lần nó rời tổ bay đi tìm bụi mận
gai và tìm cho bằng được mới thôi. Giữa đám cành gai góc, nó cất tiếng hát bài
ca của mình và lao ngực vào chiếc gai dài nhất, nhọn nhất. Vượt lên trên nỗi
đau khổ khôn tả, nó vừa hốt vừa lịm dần đi, và tiếng ca hân hoan ấy đáng cho cả
sơn ca và hoạ mi phải ghen tị. Bài ca duy nhất, có một không hai, bài ca phải
đổi bằng tính mạng mới có được.Nhưng cả thế gian lặng đi lắng nghe, và chính
Thượng đế trên thiên đình cũng mỉm cười. Bởi vì tất cả những gì tốt đẹp nhất
chỉ có thể có được khi ta chịu trả giá bằng nỗi đau khổ vĩ đại. Ít ra thì
truyền thuyết nói như vậy" Và đứa con trai của hai người cũng bị trời đất
lấy đi (sóng dìm xuống biển) nói lên nỗi bi ái và tang thương của họ."
Cuối
cùng hai kẻ ấy không ai đi đến nước của Chúa.Họ phải trả giá cho sự lầm lạc của
mình.
Đôxtôiepxki trong đời mình, trong cuộc sống có đạo, nhà văn chứng kiến
không ít nững người như cha Phrôlô, cha Ral . Nhưng Đôxtôiepxki muốn xây dựng một nhân vật chân
tu minh triết, một vị chân tu đi hết con đường nhân ái tuyệt đẹp của mình. Mà vị
chân tu ấy không ai khác trải nhiều đau khổ như kiếp người thường. Chính
Đôxtôiepxki có dụng ý khi xây dựng nhân vật Zôxima. Ông nói về người thầy tu
Nga: "Về người thầy tu Nga. Thưa các cha và các thầy, người thầy tu là gì?
Trong giới học vấn ngày nay, từ ấy nói ra với ý diễu cợt, một số người dùng nó
như một lời thóa mạ. Sự thật trong giới tu hành cũng có nhiều kẻ ăn bám, dâm
đãng và ham khoái lạc, nhiều kẻ lang thang trơ tráo. Thế nhưng trong giới tu
hành cũng có bao nhiêu người khiêm nhường và hiền lành, khát khao sống cách biệt
và nồng nhiệt nguyện cầu trong yên tĩnh. Người ta ít nói đến những người này thậm
chí lờ hẳn đi và các vị sẽ hết sức ngạc nhiên nếu tôi nói rằng những người
khiêm nhường và khát khao cầu nguyện ấy sẽ một lần nữa cứu nước Nga."
Điều
này nó cũng đúng với ý nguyện của Phật. Kinh Phật có nói: "Ăn chay niệm Phật
không phải một điều mê tín dị đoan. Ăn chay niệm Phật là sự tu nhân tích đức, cứu
nhân độ thế." (3)
Cha
Zôxima là một vị chân tu mang bản tính Nga sâu đậm. Từ khi ném khẩu súng đầy
hơi tử thần vào rừng sâu và xin lỗi kẻ suýt chết trước mũi sũng của mình, cha
Zôxima đi vào trường đời. Lần đi này là một sự sám hối lớn. Một sự sám hối như
sự sám hối của Thánh Phao lô trước đây đã từng hành hạ những người có đạo.
Chính nhờ sự đi này mà cha Zôxima có được cái nhìn thấu suốt sáu cõi, thấy tận
nỗi đau trong tim của con người. Chính nhờ đem thân mình dâng hiến cho đấng cao
cả, tình nguyện nhận cuộc thử thách sám hổi ấy mà cha Zôxima thắng được sự ham
muốn trần tục của bản thân, làm chủ được bản thân mình. Cha Zôxima cùng cha
Anfim đi hành hương. Chính cuộc hành hương như thế này biết tự lột xác trần tục
của mình. Cha đã biết giã từ vinh hoa phú quý, ham muốn ở đời. Từ bỏ hết thảy,
cúng nhà cửa, tài sản cho tu viện, chấp nhận cuộc sống hành khất làm điều thiện
để chuộc lại lỗi lầm. Chính vì trở về kiếp người dưới đáy hạ đẳng, cha Zôxima
hiểu thêm về họ. Sự gặp lại người hầu của mình ngày xưa là Afnaxi gây xúc động
lớn trong lòng cha Zôxima và cả nhiều thế hệ sau này. Chính cha Zôxima cũng nói
lên cảm tưởng của mình lúc đó. Chính cha đã tự bạch: " Tôi gặp lại người
lính hầu của tôi Afanaxi. Từ hồi chia tay với anh đến nay đã tám năm, tình cờ
anh nhận ra tôi và chạy lại với tôi, và trời ơi! Anh ta mừng quá và đâm bổ đến tôi: " Cha ơi! Đại nhân
ơi! Đại nhân đấy ư? Có phải cha đấy không?". Chúng ta xúc động với cha Trưởng
lão. Nếu không có phút cải hối, không có điều ăn năn, cam tâm làm điều thiện
ngay khi mình đang còn làm điều ác trên cõi đời này, không có tấm lòng vị tha
bao dung, không có tình thương độ lượng lớn lao, làm sao một kẻ tôi tớ của mình
vốn đối kháng với mình từ trong máu thịt lại có thể thành tâm đến như là thánh
thần ban bảo, tự nguyện, tự giác chạy lại với tấm lòng thanh sạch như nước cam
lồ vậy. Phút giấy gặp gỡ ấy cảm động nhường bao, tri ân nhừng bao. Người sĩ
quan, người từ quyền lực vinh hoa phú quý, đường binh nghiệp thăng quan tiến chức
dễ dàng, tiền của như nước đã từ giã hết thảy và chấp nhận đồng năm mươi cô pếc
, và một đồng ăn đường của người lính hầu của mình đã có hảo tâm rất mực. Cái
gì có được ở tấm lòng chân thành của ngưười lính hầu cũ, người hầu cũ của cha
Zô xi ma? Cái đó không ngoài tấm lòng nhân ái, đại từ bi, bác ái của Zôxima cái
phút đầu tiên đến với Chúa! Chính việc đến với Chúa, con người mới có lòng
thanh sạch, có tâm hồn quảng đại , có tình bằng hữu bao la. Phút giây cha
Zôxima cảm động lúc ấy cũng là nguồn khơi gợi cảm hứng cho tấm lòng tốt của người
tu hành và giúp cho họ có niềm tin làm việc nghĩa, việc thiện suốt đời mà không
hề đắn đo cân nhắc hoặc là nuối tiếc. Cha Zôxima sung sướng nói: "Tôi nhận
tiền anh ta, cúi chào hai vợ chồng và ra đi, lòng vui sướng. Trên đường đi, tôi
nghĩ: -Trước kia tôi là chủ anh ta, anh ta là tôi tớ. Còn bây giờ giữa chúng
tôi là sự hòa hợp vĩ đại của con người với nhau!".
Lòng
nhân ái của cha Zôxima cũng như cái chân
tiện mỹ ở phương Đông mà cổ nhân có nói: "Thi nhĩ Thành nhân, Thường thiên
cứu nhân cố vô khí nhân. Thường thiên cứu vật cố vô khí vật, thi vị tập
minh" . Nghĩa là: (Cho nên Thành nhân, thường khéo cứu người, nên không có
người bị bỏ. Thường khéo cứu vật nên không có vật nào bị bỏ, ấy là sáng bằng
hai) - (4) . Đi hành hương trong cõi đời ô trọc, cõi đời mà kẻ ác nhiều hơn người
thiện; cõi đời đầy rẫy những hạng người như Ivan Fiôđôrôvits, Xmerđiakốp,
Grusenka, Khôlơ lacôva..., những hạng người kém đức tin và nhiều hạng người vô thần coi khinh Đấng Cứu
thế. Cha Zôxima thấy tận mắt, hiểu thấu chân tơ, kẻ tóc nỗi đau trần thế, nỗi
đau của những kẻ lầm lạc, không có đức tin. Cha Zôxima biết và nghĩ rằng:
"Những kẻ không có đức tin thì không thể là người làm việc thiện được.Không
làm được việc thiện thì làm sao có lòng nhân ái bình thường, chưa nói đến phải
có lòng nhân ái minh triết. Không có đức tin, con người sẽ trở nên loài thú !
Cuộc sống trên hành tin này sẽ đẫm máu nhiều hơn nữa". Chính cha Zôxima bằng việc làm của mình, bằng
sự hy sinh vô tư, bằng sự tự cải tà quy chính của mình, cha Zôxima thuyết phục
được con người kém đức tin hoặc không có đức tin. Hãy nuôi dưỡng lấy đức tin
trong lòng mình. Nếu không thì cuộc sống của mỗi một con người sẽ thác loạn, mà
cuộc sống của toàn cộng đồng cũng thác loạn,con người mất phương hướng. Đó cũng
chính là một phần tâm linh sâu thẳm của Đôxtôiepxki giải bày cùng hậu thế.
Đôxtôiepxki hướng về Chúa Cứu thế và tu viện. Ý thức bệnh hoạn và ý thức tội lỗi
dẫn đến Đôxtôiepxki mong muốn một xã hội
minh trị có hai thứ là: " Tôn giáo và Nhà nước Quân chủ". Quay về với
Đấng Christ. Đôxtôiepxki tìm được cái thiện, ông quan niệm có đức tin và có cái
thiện thì có sức mạnh tạo ra toàn thế giới. Sức mạnh toàn trị ấy chỉ có ở
Jesus. Hãy gửi đức tin vào Chúa. " Đức tin đến với chúng ta không còn ở dưới
pháp luật nữa. Bởi chừng anh em hết thảy đều là con cái của Đức Chúa Trời do đức
tin tìm đến Christ Jesus (5).
Cha
Zôxima là hiện thân cho một con người Ki tô giáo trong sáng có lý tưởng, có
công khổ luyện, đức độ hy sinh. Nhiều ý kiến lập luận của các học giả cho rằng
Đôxtôiepxki dành cho Zôxima là người thầy cuộc sống là không thành công thì rõ
ràng là không thật chính xác và không hiểu hết Đôxtôiepxki. Chính nhân vật cha
Zôxima là một phần hình mẫu Đôxtôiepxki lấy mình làm nguyên mẫu là nhân vật đạt
ở độ thành công cao nhất , thành công một cách tuyệt hảo theo như ý nguyện của
Đôxtôiepxki khi xây dựng nhân vật này. Những lời rao giảng của cha Zôxima không
phải những lời nhạt nhẽo của một kẻ không từng trải, không từng khố đau, vinh
nhục trong đời trần ai... Chính cha Zôxima là người phát ngôn cho tư tưởng,
tình cảm, ý nguyện, hoài bão của Đôxtôiepxki !
Lòng
nhân ái của cha Zô xi ma như chúng ta đã phân tích là nó bắt nguồn từ trong cội
rễ của cốt nhục. Nó được xây nên từ đời sống thực của hàng nghìn số phận đau khổ
khác nhau. Nó có niềm tin, nó không dễ một sớm, một chiều tàn phai được. Việc
làm đức, việc làm nhân ái của cha Zôxima ta thấy nó có khắp mọi nơi, khắp mọi
người, không phân biệt cội nguồn, cộng đồng dân tộc. Lòng nhân ái, cái việc làm
đức ấy ở ta cũng có nhiều vị chân tu thực hành. Không hẳn các vị chân tu xuất
gia mà là những người tu tại gia cũng có ý thức khi làm việc thiện:
"Người trồng cây hạnh người
chơi
Ta trồng cây đức để đời về
sau" (6)
Người Việt
chúng ta quả là có ý thức trong tu nhân, tích đức. Việc làm của họ không mù
quáng. Chính cha Zô xima cũng vậy. Cha làm việc thiện với một ý thức rõ ràng.
Cha Zôxima muốn con người phải yêu cái thiện, không sợ cái ác, diệt trừ cái yếu.
Muốn làm được điều ấy phải trở về với Chúa, phải làm việc nhân ái, để xóa cái
ác và xây dựng một vương quốc của cái thiện. Muốn thành công thì phải nhờ Chúa hỗ trợ.
Bằng đời
thực của mình đã trải qua trong cuộc đời mà đến với Chúa, cha Zôxima không đời
nào mù quáng khi mình làm một việc gì cứu nhân độ thế . Việc cha làm không cầu
danh, cầu lợi cho mình mà là một việc làm có ý nghĩa hẳn hoi. Một việc làm xuất
phát từ tấm lòng nhân hậu có một không hai xây dựng nên. Chính người chúng sinh
yêu mến của cha Zôxima, mặc dầu chưa trải qua trường đời nhưng biết tin theo
Trưởng lão, biết Trưởng lão là con người chân tu kiệt xuất đã trả lời thẳng trước
mặt anh mình là Ivan Fiôđônôvits là anh ta tin có Chúa. Mặc cho Fiôđônôvits bằng
những lý luận vững chắc của mình, bằng dẫn chứng hùng hồn, từng cải lại cha Zô xi
ma, bác bỏ tất cả mọi niềm tin có Chúa trên đời. Chứng tỏ trưởng lão Zô xi ma
uy danh rất lớn. Uy danh và lý luận của Zô xi ma đủ để đánh bại tư tươngr vô thần
của Ivan Fiôđônôvits.
Không
những đánh đổ những thế lực vô thần khác, mà ngay trong những người tu hành đạt
đến bậc chân tu như Fêrapôn vẫn không thể lấn át uy danh đức độ với cha
Zôxima. Ở cha Zôxima, cho ta thấy tư tưởng nhân đạo phương Tây và phương Đông đều
gặp nhau tại một điểm. Đó là lòng nhân ái bao dung, tình thương quảng đại, yêu
mến hết thảy mọi con người sinh ra trên cõi thế này.
Cùng
thơi điểm này ở phương Đông cụ thể là ở Việt Nam ta, nhà danh y nổi tiếng của
dân tộc Hải Thượng Lãn Ông Lê Hữu Trác nói:
"Đứa ăn mày cũng trời sinh
Bệnh còn cứu đặng, thuốc dành cho
không"
Về
lòng nhân ái (Y đức) Hải Thượng Lãn Ông thường nói: “Thầy thuốc nắm tính mạng của người
bệnh, người ta gửi tính mạng cho mình, phải hết sức cẩn trọng, phải nghiên cứu
sách vở kỹ càng, khi chữa bệnh phải cẩn thận, phải nhận rõ được bệnh chứng rồi
mới lập phương, tuyệt đối không được sơ suất, xem thường. Nghề thuốc không phải
là nghề cầu danh trục lợi, không phải thấy người giàu sang mà xu phụ để kiếm tiền,
thấy người nghèo khổ, cô đơn mà khinh miệt. Người giàu sang không thiếu gì thầy,
thiếu gì thuốc”. (7). Khi chữa bệnh cho
người nghèo khổ, chữa được bệnh rồi, cụ còn giúp tiền để bồi bổ. Cụ thường nói:
“Làm nghề thầy thuốc không nên vụ lợi. Không nên cầu báo ơn. Không nên khinh
người nghèo. Đối với đồng nghiệp phải khiêm nhường. Phải học tập những người
hơn mình. Giúp đỡ người kém mình. Không được khinh rẻ lẫn nhau” (8). Đây là yếu
tố nhân cách của người làm thuốc và đạo lý làm thầy của cụ. Cụ đã viết ra 9 điều
Y huấn cách ngôn để dạy các thế hệ thầy thuốc đời sau mà ngày nay, Bộ Y tế đã lấy
làm y đức cho các thầy thuốc đông y".
Phật dạy:
Yêu thương phải từ bi, hỷ, xả -
Đó là lòng nhân ái, yêu thương hết thảy mọi
chúng sinh, giúp nhau qua hoạn nạn, cùng chung khi có niềm vui, bỏ qua mọi thù
hận không đáng có, cùng nhau tiến đến đại đồng.
Lòng
nhân ái ở đạo Giáo, đạo Phật đều cùng gặp nhau tại một điểm. Cũng như cha Frôlô
(Nhà thơ Đức Bà Paris) , cha Zôxima là người thông suốt giáo lý Kitô giáo, người
hiểu được cội nguồn chân dung thiện mỹ của Đạo. Sự tu hành, việc ham đọc sách,
lòng ham học, ham hiểu biết cõi dương thế giúp cho các nhà tu hành hiểu biết rộng
rãi ở nhiều phương diện tri thức. Cha
Ralphơ (t rong tiểu thuyết - Những con
chim ẩn mình chờ chết) cũng vậy. Cha là
một trí thức lớn. Nhưng cuối cùng cha Frôlô, cha Ralphơ đều bị lột mặt nạ, họ đều
là một mớ bòng bong không có một ý nghĩa nào thuyết phục con người trên đời.
Còn lại chỉ có cha Zôxima. Cha Zôxima thể hiện một tấm thịnh tình nhân ái bao
la. Nói theo ngôn ngữ hiện đại là lòng nhân áu có mắt, hay là lòng nhân ái hiển
minh, xuất phát từ một tri thức rộng lớn minh triết! Lòng nhân ái có từ trái
tim yêu nhân loại của mình.
Như đã
phân tích phần trước, cuộc đời trai trẻ của cha Zôxima là một phần đời trai trẻ
của Đôxtôiepxki. Quảng đời quân ngũ của cha là quảng đời quân ngũ của
Đôxtôiepxki. Phần đời binh nghiệp ấy đã cho Đôxtôiepxki thấy được rõ cái thiện,
cái ác trên đời này... Trong những ngày hoạt động ở nhóm chống đối, Đôxtôiepxki
càng thấy rõ hơn cái ác tồn tại ở thế gian. Chính nhờ vốn sống trong phần đời
thực này mà Đôx tôiepxki hiểu thêm nhân thế.Trên cõi đời này, cái thiện và cái
ác đều song song tồn tại. Nó cùng đi đến cõi bất tử. Không có cái này tiêu diệt
được cái kia. Đấy là một sự thật. Nhưng
chúng ta cũng biết rằng bao giờ cái thiện cũng nhiều hơn cái ác và chiến thắng
cái ác. Đó là cách nhìn biện chứng. Cách nhìn đúng. Tất nhiên trong cuộc đời,
thì lúc này, lúc khác, chỗ này, chỗ khác ,có lúc cái ác thắng cái thiện, cái
thiện thua cái ác. Vấn đề là con người hay các bậc minh triết biết huy động con
người trở về cái thiện để cho cái thiện thắng thế.. Chính lúc này vai trò của
các tôn giáo chân chính có một vị trí lớn lao trong việc tập hợp loài người đi
theo cái thiện.
Cha
Zôxima hiểu rõ điều này. Bằng lý lẽ của mình, bằng cái nhìn thấu thị, cha biết
rằng: "Kẻ nào không tin Chúa thì cũng không tin con dân của Chúa. Người
nào tin con dân của Chúa thì cũng sẽ thấy Thánh diện của Chúa. Chỉ có nhân dân
và sức mạnh tinh thần sau này của nhân dân mới làm cho kẻ vô thần đã mất gốc trở
lại đạo... Không có Chúa thì dân chúng diệt vong. Bởi vì nhân dân khao khát lời của Chúa".
Việc đi
tìm cái thiện của cha Zôxima thật đúng với việc đi tìm cái thiện của những bậc
tu hành phương Đông. Muốn trị được cái ác, không gì hơn phải trở về với cái thiện.
Vương Duy là bậc thi Phật đời Đường ở Trung Quốc đã từng nói:
"An thiền chế độc long" (9)
Nghĩa là
: " Muốn trị được con rồng dữ phải trở về đạo Phật và thấu hiểu nó".
Ta hiểu con rồng dữ ở đây là cái ác. Chế ngự được cái ác thì thế giới muôn loài
yên bình.
Theo Tạng
thư:
"Phật thứ nhất: Xích Ái Phật Phật thứ nhất tên là Xích Ái Phật,
giáng sinh tại phương Nam, vị này là linh minh nhất trong chúng sanh, giáo hóa
người đời, khai phát núi đảo, thời ấy là thời kỳ hồng hoang, nhân hợp với
Thiên, vô tri vô thức, tính bổn chí thiện, người và thú ở chung, người thú
không phân ra, nhưng không xâm phạm nhau, không giết chóc lẫn nhau, hòa bình sống
chung, không giành ăn với nhau. Trong Kinh Thánh “Cựu Ước” trang thứ nhất có
ghi: “Thần nói: Xem đấy! Ta đã đem rau cải, hạt giống đủ loại khắp nơi và trái
trên cây đủ loại mang theo hạt giống, ban cho các ngươi làm thực phẩm, còn con
thú đi trên mặt đất, con chim bay trên không trung, cùng các loài vật có mạng sống
bò trên mặt đất, Ta đem cỏ xanh ban cho chúng làm thức ăn, việc như vậy là hoàn
thành, cho nên người và thú đều có miếng ăn của mình, không xâm phạm lẫn nhau”.
Trong
“Tam Tự Kinh” có nói: “Đạo, lương, túc, mạch, thử, tắc, thử lục cốc nhân sở thực.
Mã, ngưu, dương, kê, khuyển, thỉ, thực lục súc nhân sở tự”, con chó giữ nhà trông
đêm, con gà báo thức sáng sớm, mọi thứ đều có cái cho sử dụng, thật là thế giới
an hòa lạc lợi ".
Hai luồng tư tưởng của cái thiện ở hai phương
Đông, Tây lại cùng gặp nhau ở một điểm.
Lòng
nhân ái của cha Zô \xima là lòng nhân ái được Chúa ban cho. Không phải ai cũng
có vinh hạnh này. Cha Zôxima đã có Kinh Thánh trong đời của mình. Lòng nhân ái
của cha cũng bắt đầu từ tấm lòng vị tha có cội nguồn từ thuở còn thơ. Chính người
có tuổi thơ là người giàu lòng nhân ái hơn ai cả. Bởi vì nhờ những điều
này mà khi trở thành vị chân tu, cha
Zôxima mới thấu triệt thêm chân lý :" Không thể nói về đức hạnh được khi
chính chúng ta đi làm đổ máu người". Cha coi tội làm đổ máu người là tội lớn
nhất trên tất cả các tội có ở trần thế. Không có cái sám hối nào lớn hơn cái
sám hối làm đổ máu người. Cái sám hối ấy nghìn năm đè nặng lên trái tim người hối
lỗi. Không ai có thể chia sẻ số phận ấy. Cha mẹ cũng không, anh em bầu bạn cũng
không, chồng vợ cũng không. Cuối cùng chỉ có bản thân mình, chính mình biết hối
cải , biết tự mình tỉnh ngộ chuộc lại lỗi lầm. Chỉ có điều đó mới tìm về được
cái thiện, chính điều đó mới mong xóa dần đi cái ác.
Những bậc
chân tu vỹ đại ngày trước, những vị thánh ngày trước đã làm được điều này. Đó
là những tấm gương cho đời sau noi theo.
Phao lô là một vị Thánh thứ nhất , thứ hai
trong các hàng vị Thánh sau Đức Chúa Jesus cũng đã đi từ con đường lầm lạc trở
về con đường lương thiện.Trước mắt vua Ápripba, Phao lô nói: "Chính tôi từng
thầm nghĩ làm nhiều điều để chống nghịch danh Chúa Người Xanaret. Tôi cũng đã
làm như vậy trại Gieusalem, đã nhân quyền bính của các thầy tế lễ và bỏ tù nhiều
thánh đồ và lúc họ bị giết, tôi cũng bỏ thăm ưng thuận."
Nhưng Phao lô đã gặp Chúa. Chúa đã xưng danh: "Ta là Jesus mà
ngươi bắt bớ đây, song hãy đứng lên. Ta sẽ giải cứu người khỏi dân. để hướng về
Đức Chúa Trời hầu cho họ
nhận được sự tha tội được nên Thánh bởi có đức tin với ta."(10)
Tìm về
cái thiện, tìm về Chúa, được Chúa cảm hóa, được cái thiện dẫn dắt, Phao lô đã
đi đến con đường chân tu và cuối cùng đắc đạo.
Thánh
Miguel de Manata cũng vậy. Từ một kẻ Don Juande trác táng làm thui hại bao nhiều
đời con gái vô tội, Miguel de Manata đã sám hối , từ bỏ tất cả để trở về cái thiện . Công đức hổi
lỗi ấy đã được hậu thế soi xét. Hai trăm năm sau khi chết, Miguel de Manata được
hiển Thánh.
Cha
Zôxima đi theo các vị thánh này, noi gương họ và như đã phân tích là cha cũng đắc đạo.
Cha
Zôxima khi ném khẩu súng của mình, không muốn làm đổ máu đồng loại, bằng cái cảm
quan thấu thị. Cha biết "dùng súng để đẻ ra chính quyền" (11) là tự
sát mình và tự sát nhân loại. Kẻ nhân danh tự do sẽ giết chết tự do! Cái nhu cầu
thỏa mãn bản thân của họ nảy sinh trong lòng họ nhiều ham muốn, nhiều thói quen
vô nghĩa và ngu xuẩn, lắm giả tưởng vô lý. Người ta sống đố kỵ và hiềm khích lẫn
nhau. Ngựa xe, chức tước, kẻ hầu người hạ, danh dự lòng tham giết chết con người
ham quyền lực. Rồi thay cho rượu, họ uống máu người. Những kẻ đấu tranh cho
nhân loại, giành lấy tự do ấy lại rơi vào vòng nô lệ của những thói quan, ham mốn.
Ý tưởng thống nhất toàn nhân loại của kẻ ác, ý tưởng phục vụ nhân loại của họ
ngày càng lụi tắt trên thế gian. Cuối cùng tất cả lý tưởng giả vờ phục vụ nhân
loại ấy chi đi phục vụ cho một nhúm ngưới sống biệt lập với cộng động.
Cha
Zôxima hiểu con đương tu hành của minh
khi mình tự chọn là con đường dẫn đến tự do thật sự, dẫn đến cái thiện.
Có như thế mới có lòng nhân ái. Lòng nhân ái phải sinh ra ở trái tim giàu lòng
nhân hậu và ở bộ óc trác việt của bậc chân tu hay người làm việc thiện. Cha
Zôxima biết rằng ngay từ thời cổ xưa, những nhà hoạt động của nhân dân cũng từ
những bậc tu hành mà ra. Hiện tại cũng thế mà sau này cũng thế. Cha Zôxima khi
trở về cái thiện , cha hiểu công việc của mình, công việc chân chính của vị
chân tu Nga. Những người ăn chay và những người khiêm nhường và hiền lành ấy sẽ
đứng ra phục vụ sự nghiệp vỹ đại. Nhân dân sẽ cứu nước Nga. Từ muôn đời tu viện
Nga đi với nhân dân. Cha Zôxima bằng khả năng thấu thị của mình hay chính
Đôxtôiepxki bằng thiên tài trực báo cảnh tỉnh cho nhân loại biết nguy cơ của kẻ
làm điều ác. Cha Zôxima thấy được ở nước Nga của Cha: "Những nhà hoạt động
không tính ngưỡng, không làm nên trò trống gì cho dù người đó có tấm lòng chân
thành và trí tuệ thiên tài. Hãy nhớ lấy điều đó. Nhân dân sẽ đương đầu với người
vô thần và quật đổ kẻ đó. Nước Nga chính giáo thống nhất sẽ xuất hiện. Hãy bảo
vệ nhân dân và chăm sóc trái tim nhân dân bằng ân nghĩa. Hãy vì nhân dân mang
Chúa trong mình."
Đôxtôiepxki quả có cái nhìn thấu thị.
Bằng giác vô thức, ông biết đến cái đổ vỡ tất yếu của những kẻ vô thần
(hay đúng hơn những kẻ làm điều ác). Sau một trăm năm thời gian đã là người thầy
công minh kiểm nghiệm cái nhìn thiên tài của Đôxtôiepxki. Đúng là Đôxtôiepxki
là một thiên tài - thiên tài nhân ái. Ông đã cảm nhận trước tất cả nhân loại.
Thế kỷ sau thế kỷ 19, thế kỷ XX, cái ác thắng thế hoành hành lấn át cái thiện.
Điển hình là chủ nghĩa Phát xít và chủ nghĩa Cộng sản.
Cái ác của Chủ nghĩa Phát xít là : Chủ nghĩa
phát xít là một hệ tư
tưởng chính trị và
phong trào số đông mà muốn đặt quốc
gia trong những thuật ngữ về lịch sử, văn
hóa, sinh học độc nhất, trên tất cả là các động lực của lòng trung thành, và muốn
tạo nên 1 cộng đồng quốc gia được huy động..[1] Rất nhiều đặc điểm được quy cho chủ nghĩa
phát xít bởi nhiều học giả khác nhau, nhưng những yếu tố sau thường được xem
như cấu thành: chủ nghĩa dân tộc hẹp hòi, chủ nghĩa tư bản, chủ
nghĩa độc tài quân sự, chủ nghĩa quân phiệt, chủ nghĩa chống cộng, chủ nghĩa hợp tác, chủ nghĩa toàn trị, chủ nghĩa chuyên chế[2], chống lại chủ nghĩa tự do và chủ nghĩa cộng sản. Có rất nhiều tranh cãi giữa các học giả về bản
chất của chủ nghĩa phát xít và những loại phong trào chính trị và những chính
phủ mà có thể bị gọi là phát xít. Trên thực tế chủ nghĩa phát xít ở Ý, nơi khởi đầu của nó,
khác với ở Đức, hay "chủ nghĩa phát xít" ở Nhật, ở Tây Ban Nha, và một
số nơi khác, và cũng như các phong trào phát xít mới phát triển ở châu Âu hiện
nay, xem xét các khía cạnh kinh tế, thủ thuật giành chính quyền, cương lĩnh, tư
tưởng, mô hình nhà nước,... nhưng có điểm chung là gắn với tinh thần dân tộc.
Ngoài các đặc điểm
chung của chủ nghĩa phát xít như độc tài, chuyên chế, phản dân chủ, xâm lược,
dã man tàn bạo, phát xít Đức có một điểm độc đáo là tàn sát nhằm tiêu diệt
những người chúng cho là “hạ đẳng” dù họ không phải là đối tượng chiến tranh.
Hành vi nói trên xuất phát từ quan điểm chủng tộc bệnh hoạn cực đoan ích kỷ của
Hitler: coi chủng tộc German là thượng đẳng (chúng tự lấy tên là người Aryan),
các dân tộc Do Thái, Gypsy, Slavơ là hạ đẳng, cần giết hết để lấy không gian
cho chúng sinh tồn. Phát xít Nhật cũng có quan điểm cho dân tộc Nhật là dòng
dõi thần thánh, cần thống trị toàn châu Á để xây dựng “Đại Đông Á” ngang ngửa
với Âu, Mỹ; nhưng chưa tới mức bệnh hoạn như Hitler.
Năm 1933, Hitler chỉ
thị phải thủ tiêu những người bẩm sinh tàn tật hoặc đần độn (không phải Do
Thái). Khoảng 5000 trẻ em loại này đã bị tiêm thuốc độc chết. Năm 1939, hắn lập
6 “Trung tâm T-4”, dùng khí CO (carbon monoxide) giết mỗi đợt 20-30 người thiểu
năng trí tuệ hoặc tâm thần, rồi đốt xác phi tang. Gia đình họ nhận được bình
tro hài cốt và thư chia buồn nói chết là do viêm phổi, phải đốt xác để tránh
truyền nhiễm. Về sau, do bị lộ, các đại diện tôn giáo lên tiếng phản đối.
Hitler phải ngừng việc này (8/1941) khi hơn 70 nghìn nạn nhân đã chết, nhưng
vẫn thủ tiêu tiếp vài nghìn tù chính trị, tù hình sự và người Do Thái theo cách
cố ý kết luận họ bị tâm thần.
Người Do Thái di cư
đến Đức từ thế kỷ I; đầu thế kỷ XX họ có hơn nửa triệu người ở Đức, chiếm 1% số
dân. Thủa xưa, tín đồ đạo Ki Tô ở châu Âu ghét người Do Thái vì cho rằng họ gây
ra cái chết của Jesus. Cuối thế kỷ XIX, xuất hiện một “lý thuyết sinh học” nhận
định Do Thái là một chủng người khác thường, có bản tính độc ác di truyền. Nước
Nga Sa Hoàng giết hại hàng nghìn người Do Thái với lý do ấy. Nhiều người Do
Thái chạy sang Đức, nơi họ coi là quốc gia văn minh nhất. Nhưng họ đã nhầm, vì
sau này nơi đây xuất hiện Hitler.
Hitler cho người Do
Thái là loại quái vật bí hiểm quỷ quyệt, chuyên đứng sau giật dây, gây ra tất
cả các tội ác, từ chủ nghĩa tư bản cho đến nạn mại dâm. Hắn dùng luật pháp định
tội họ và đánh họ về kinh tế. Từ năm 1931, các đội Xung kích Nazi đã đập phá
khu người Do Thái và các ngôi mộ của họ, cũng như ngăn người Đức tới mua hàng ở
các cửa hiệu Do Thái. Năm 1933, Hitler ký các đạo luật cấm người Do Thái làm
công việc văn thư, luật pháp, y tế, nông nghiệp, âm nhạc, kịch nói, điện ảnh,
cấm phục vụ trong quân đội v.v.. Giai đoạn 1933-1939 đã ban hành hơn 400 đạo
luật chống Do Thái. Năm 1935, Quốc Hội thông qua Luật Chủng tộc Nuremberg, hoàn
toàn loại trừ người Do Thái ra khỏi đời sống xã hội. Năm 1937, Goering thực thi
“Aryan hoá nền kinh tế”, nghĩa là tịch thu các xí nghiệp của người Do Thái.
Khoảng 80% các xí nghiệp này đã chuyển vào tay người Đức.
Từ 1934, Đức bắt đầu
xua đuổi người Do Thái. Hàng năm có 8000 người Do Thái bị đưa đến Palestine
thuộc Anh – nơi được Anh hứa lập riêng một nhà nước Do Thái. Về sau các nước
khác không nhận nữa, vì họ cũng bài Do Thái và vì đã nhận quá nhiều; như Ba Lan
chỉ trong 20 năm đã có 400 nghìn người Do Thái đến. Mỹ, Anh, Pháp có truyền
thống nhận người tỵ nạn, nay cũng hạn chế nhận. Việc xua đuổi giết hại người Do
Thái chỉ chậm lại trong thời gian Đức tổ chức Thế vận hội Olympic 1936; sau đó
lại đẩy mạnh. Trong “Đêm Kinh hoàng” 9/11/1938, các đội Xung kích đánh giết,
cướp bóc, đập phá, đốt cháy nhiều cửa hiệu, đền thờ, nhà ở của người Do Thái ở
Munich. Đầu năm 1939, Hitler tuyên bố: “Chủng tộc Do Thái ở châu Âu sẽ
bị huỷ diệt.” Lực lượng SS bắt người Do Thái đưa về trại tập trung
Dachau gần Munich để giết dần họ. Sau khi chiếm Ba Lan, nơi có 3,3 triệu người
Do Thái, phát xít Đức bắt đầu tăng tốc độ tàn sát. Để giấu dân Đức biết việc
này, từ cuối 1939, phát xít Đức chở người Do Thái và người Gypsy (ở Việt Nam
quen gọi là người Di-gan, một chủng tộc gốc Indo-Aryan, năm 1979 được Liên Hợp
Quốc công nhận là một dân tộc) ở châu Âu vào các trại tập trung ở Ba Lan.
Cuộc tấn công vào Liên
Xô – nơi có 5 triệu người Do Thái – đánh dấu bước ngoặt trong chính sách chống
Do Thái. Hitler huấn thị cho các chỉ huy quân đội: Do Thái và Bôn-sê-vich, giới
trí thức và Hồng quân Nga đều là kẻ địch phải tiêu diệt. Lực lượng SS trở thành
đội quân hành quyết chuyên nghiệp. Khi tiến vào Liên Xô, chúng cứ thấy người Do
Thái là bắn ngay. Tại 3 nước vùng Ban-tích, chúng phối hợp với cảnh sát địa
phương (vốn ghét Do Thái) làm việc này. Trong 5 tuần đầu vào đất Liên Xô, số
người Do Thái bị chúng giết nhiều hơn tổng số đã giết từ trước đến lúc đó. Ngày
1/8/1941, Heydrich báo cáo Himmler: “Có thể tin chắc là trên mảnh đất
miền Đông này sẽ không còn người Do Thái nữa.” Sau đó Himmler đến tận
Minsk để xem “biểu diễn” cảnh hành quyết: hàng trăm người Do Thái nằm úp mặt
dưới rãnh đào, lính SS bắn vào từng người. Himmler sợ tái mặt suýt ngã, thế
nhưng sau đó hắn huấn thị: mọi người cần thi hành chức trách luật pháp của
mình; để tự bảo vệ, loài người cần xác định kẻ nào là có hại, và đã có hại thì
phải tiêu diệt sạch. Khi chiếm Kiev (9/1941), lính SS gọi toàn bộ người Do Thái
tập trung vào nghĩa trang rồi xả súng bắn; trong 2 ngày, chúng giết chết 33.771
người. Về sau, Himmler ra lệnh phải tìm cách giết sao để “đỡ hành hạ họ về tinh
thần”. “Sáng kiến” đầu tiên là dùng các xe tải bọc kín, mỗi xe chứa khoảng 50
người rồi bơm khí CO vào cho họ chết ngạt.
Đầu 1942, khi đã giết hơn 1 triệu người “hạ đẳng”, Goering ra lệnh tăng
tốc độ giết họ với mục đích diệt chủng. Chúng xây dựng ở Đông Âu 3 trung tâm
giết người là các trại tập trung Belzec, Treblinka, Sobibor. “Dây chuyền công
nghệ” mới là: dùng xe lửa chở người đến trại, lột hết quần áo, đưa vào phòng
kín mỗi phòng 400 người rồi bơm khí CO vào, xác đem đốt hoặc chôn. Trung bình
nạn nhân đến trại không quá 3 giờ là bị giết! Hàng ngày có 100 toa xe lửa chở
người đến, mỗi ngày 3 trại này “sản xuất” được 25 nghìn xác chết! Tổng giá trị
số tiền cướp từ nạn nhân lên tới 70 triệu USD. Tóc của họ được chở về Đức để
chế tạo loại vải đặc biệt. Ba trại tập trung trên về sau bị Đức san bằng để phi
tang tội ác; xác chết được đào lên rồi đốt. Tiếp đó, chúng xây dựng trại tập
trung Auschwitz I, II và III, vừa là trại lao động vừa là các nhà máy giết
người. Tháng 3/1944, Đức chiếm Hungary; lúc này Liên Xô đang đánh đuổi quân Đức
ở Đông Âu, nhưng chúng vẫn kịp chở 280 nghìn người Do Thái ở Hungary đến
Auschwitz. Khi quân đội Liên Xô giải phóng trại này (27/1/1945), chỉ còn 2800
người sống sót, trong kho còn hơn 836 nghìn áo khoác và váy phụ nữ, 370 nghìn
áo khoác nam và 7 tấn tóc của người đã chết.
Hitler cũng tàn sát hàng loạt người Gypsy
– buộc tội họ phá hoại huyết thống người German. Chủ nhiệm “Viện nghiên cứu Vệ
sinh chủng tộc và sinh vật học quần thể” là bác sĩ Robert Rits được giao nhiệm
vụ nghiên cứu tìm “chứng cớ khoa học”. Tất cả người Gypsy đều phải đăng ký với
chính quyền, rồi được phân loại theo mức độ lai với người Đức. Cuối cùng Rits
kết luận: người Gypsy có dòng máu người nguyên thuỷ, làm thành một giai cấp “á
vô sản” tự khép kín, có khuynh hướng phạm tội, nên đưa vào các trại tập trung
để lao động, hoặc tốt nhất thủ tiêu họ. Khoảng 250-500 nghìn người Gypsy đã
chết trong các trại tập trung.
Tháng 8/1939, trước
khi xâm lược Ba Lan, Hitler ra lệnh cho quân đội Đức: “Giết hết bất cứ đàn
ông, đàn bà, trẻ con có huyết thống Ba Lan hoặc nói tiếng Ba Lan; chỉ có thế
chúng ta mới giành được không gian sinh tồn ta cần”, nhằm lập một đế chế
Nazi ở Đông Âu, xây dựng tại đây một xã hội “tuyệt đối nông thôn hoá, thuần
khiết về đặc tính sinh học, không cho phép tồn tại dân bản địa hạ đẳng.”
Himmler nói: “Chúng ta phải bảo đảm chỉ người Đức thuần chủng mới được sống
ở miền Đông.” Để đàn áp phong trào kháng chiến, chúng quy định: cứ 1 lính
Đức bị giết thì chúng sẽ giết 50-100 người Ba Lan.
Lực lượng SS thành lập
“Uỷ ban Tăng cường Đức hoá” (RKFDV) để quy hoạch đất đai Đông Âu, thủ tiêu
người Slavơ ở đó và bố trí người Đức đến ở. Quân Đức đến đâu cũng ra lệnh cho
mọi người dọn nhà sạch sẽ, chuẩn bị hành lý tuỳ thân trong vòng 20 phút và nộp
chìa khoá nhà cho chúng, rồi chúng chở họ đến các trại tập trung. Nhà của người
Ba Lan phải giữ lại cho người Đức đến ở sau khi hết chiến tranh. Ai phản đối
lập tức bắn. Ngoài nhà treo biển: “Người Ba Lan, Do Thái và chó cấm vào”. Ruộng
đất giao cho quân đội Đức quản lý để khi lính Đức giải ngũ sẽ sử dụng. Tên
Heydrich trùm SS khét tiếng giết người Do Thái về sau đã bị du kích Tiệp Khắc
ám sát; để trả thù vụ này, phát xít Đức đã gây ra vụ thảm sát làng Lidice.
Tổng cộng phát xít Đức
đã giết 13 triệu dân thường Đông Âu; Ukraine – 4 triệu người (gần 1 triệu là Do
Thái), một nửa số dân Kiev bị giết; Belorussia – 2,3 triệu hoặc 25% số dân; Ba
Lan – 6 triệu (một nửa là Do Thái, một nửa là tín đồ Tin Lành) hoặc 22% số dân;
Liên Xô – vài triệu dân người Slavơ và 3 triệu tù binh Nga gốc Slavơ. Tại Ba
Lan, chúng giết toàn bộ các nhà báo, 45% bác sĩ, 57% luật sư, 40% giáo sư –
những người chúng cho là có thể lãnh đạo dân chống lại Đức.
Tuy thế, Hitler có
thái độ khác đối với các nước Tây và Bắc Âu. Vẫn đánh nhau với Anh nhưng hắn
tôn trọng dân Anh, vì họ cùng nguồn gốc chủng tộc German. Hắn lúc đầu muốn hoà
bình với Anh để cùng chống Liên Xô, nhưng Thủ tướng Churchill phản đối vì đã
thấy rõ bộ mặt xâm lược của hắn. Hitler coi người Slavơ là “đáng khinh”, nhưng
chưa cần diệt ngay như người Do Thái. Người Slavơ do nhiều dân tộc hợp thành,
gồm người Ba Lan, Tiệp Khắc, Slovakia, Croatia, Slovenia và Serbi; các nước có
người Slavơ như Hungary, Romania và Bulgaria còn là đồng minh của Đức, cho nên
việc tiêu diệt người Slavơ khác với người Do Thái. Hitler chủ trương nước Đức
không xây dựng xã hội quý tộc nuôi nô lệ mà tự lao động kiếm sống trong một “xã
hội nông thôn”.ái ác điển hình thứ hai trong thế kỷ nối tiếp (thế kỷ XIX) là
chủ nghĩa cộng sản.
Chủ nghĩa cộng sản là một hình thái kinh tế xã hội và hệ tư tưởng chính trị ủng hộ việc thiết lập xã
hội phi nhà
nước, không giai
cấp, tự do, bình đẳng,
dựa trên sự sở hữu chung và điều khiển chung đối với các phương tiện sản xuất nói chung.[1][2][3] Karl
Marx cho rằng chủ
nghĩa cộng sản sẽ là giai đoạn cuối cùng của lịch sử,
đạt được qua một cuộc cách mạng vô sản. Trong xã hội cộng sản, các quyết định về việc sản
xuất cái gì và theo
đuổi những chính sách gì được lựa chọn một cách dân chủ, cho phép mọi thành viên của xã
hội tham gia vào quá
trình quyết định trong cả hai lĩnh vực chính
trị và kinh
tế. Việc sản
xuất và phân phối của
cải được tiến hành công bằng giữa các công
dân. Karl Marx chưa bao
giờ miêu tả chi tiết về việc chủ nghĩa cộng sản sẽ vận hành như thế nào trong
vai trò một hệ thống kinh tế - xã hội, nhưng người ta hiểu rằng một nền kinh tế
cộng sản chủ nghĩa sẽ dựa trên sở hữu toàn dân đối với các tư liệu sản xuất.
Chủ nghĩa cộng sản cố
gắng đưa ra một giải pháp khác cho các vấn đề của kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa và di sản của chủ nghĩa đế quốc và chủ nghĩa dân tộc. Marx khẳng định rằng cách duy nhất để giải quyết các vấn đề
này là tầng lớp lao động (vô sản), những người mà theo Marx là lực lượng chính
tạo ra của cải vật chất trong xã hội và là những người bị tầng lớp tư bản (tư
sản) bóc lột, đứng lên
làm tầng lớp cầm quyền thay cho giới tư sản để thiết lập một xã hội tự do,
không phân biệt giai cấp hay chủng tộc.[2] Người lao động đã được tổ chức thành
giai cấp thống trị sẽ tước bỏ quyền tư hữu và kiểm soát tư liệu sản xuất vì lợi
ích của xã hội. Theo quan điểm của những người cộng sản, chủ nghĩa cộng sản là
con đường để giải phóng giai cấp, giải phóng dân tộc, giải phóng nhân loại.
Thực hiện chủ nghĩa cộng sản thông qua cách mạng, bao gồm cách mạng lật đổ chế
độ "người bóc lột người", và cách mạng xây dựng xã hội mới.
Trong vai trò
một hệ tư tưởng chính trị, chủ nghĩa cộng sản thường được xem là một nhánh của chủ nghĩa xã hội; một nhóm học thuyết triết học chính trị và kinh tế được rút ra
từ nhiều phong trào chính trị và tri thức có nguồn gốc từ các tác phẩm của các
nhà lý thuyết của Cách mạng Công nghiệp và Cách mạng Pháp.[4] Nhánh kia là lý luận của các đảng Dân chủ xã hội hiện có nhiều ảnh hưởng tại Tây Âu và
Bắc Âu. Do cùng chịu ảnh hưởng của chủ nghĩa Marx, các đảng cộng sản và Dân chủ xã hội thường có quan hệ đồng minh với nhau
thành một lực lượng chung được gọi là cánh tả.
Chủ nghĩa cộng sản bắt
nguồn từ phương Tây nhưng càng di chuyển về phương Đông càng bị biến đổi tùy
theo tâm lý, văn hóa và những điều kiện kinh tế - xã hội của địa phương mà nó
đi qua làm nảy sinh ra những trường phái tư tưởng cộng sản khác nhau với cách
hiểu khác nhau về chủ nghĩa cộng sản. Những hình thức nổi
bật của chủ nghĩa cộng sản, chẳng hạn như Chủ nghĩa Lenin, Chủ nghĩa Stalin, Chủ nghĩa Mao và Chủ nghĩa Trotsky,
đều kế thừa từ Chủ nghĩa Marx,
nhưng giữa chúng có những khác biệt tùy theo cách hiểu và bối cảnh xã hội mà
nhà lý luận chịu ảnh hưởng. Tuy nhiên, chủ nghĩa cộng sản cũng có những phiên
bản khác không liên quan đến Chủ nghĩa Marx, chẳng hạn Chủ
nghĩa cộng sản Thiên chúa giáo và Chủ nghĩa cộng sản
vô chính phủ (anarcho-communism).
Một trăm năm kể từ cuộc đảo chính của
Lenin ở Nga, thứ ý thức hệ dấn thân cho sự nghiệp xóa bỏ thị trường và quyền tư
hữu đã để lại một chặng đường dài hủy diệt và chết chóc.
Tầm tuần này một thế kỷ trước, chủ nghĩa
cộng sản chiếm được đế quốc Nga, đất nước lớn nhất thế giới tại thời điểm đó.
Các phong trào thiên tả đủ loại đã lan tràn trong chính trị châu Âu trước khi
diễn ra cuộc cách mạng ngày 25 tháng Mười năm 1917 (trùng vào ngày 7 tháng Mười
Một theo lịch cải cách của Nga), nhưng Vladimir Lenin và những người bolsheviks của
ông thì khác hẳn. Họ không chỉ mang một niềm tin hoang tưởng mà còn
linh hoạt trong chiến thuật và may mắn hơn các đối thủ.
Chủ nghĩa cộng sản đi
vào lịch sử như là sự kết tội chủ nghĩa tư bản, kịch liệt nhưng đầy chất lý
tưởng, và hứa hẹn một thế giới tốt đẹp hơn. Những người ủng hộ chủ nghĩa cộng
sản, cũng như những người cánh tả khác, đều đổ lỗi cho chủ nghĩa tư bản đã gây
ra tình trạng bi thảm của nông dân và công nhân cũng như sự lan tràn của lao
động nhập cư và lao động trẻ em. Những người cộng sản nhìn thấy cuộc tàn sát
trong Chiến tranh Thế giới lần thứ Nhất như là hậu quả trực tiếp của sự cạnh
tranh khốc liệt giữa các cường quốc để giành giật thị trường nước ngoài.
Nhưng một thế kỷ cầm
quyền của chủ nghĩa cộng sản – mà ngày nay vẫn còn đứng vững ở Cuba, Bắc Hàn và
Trung Quốc – đã làm rõ cái giá phải trả về nhân mạng của một chương
trình chính trị quyết tâm lật đổ chủ nghĩa tư bản. Hết lần này đến lượt khác,
nỗ lực xóa bỏ thị trường và quyền tư hữu đã gây ra cái chết của một số lượng
người đáng kinh ngạc. Từ năm 1917 – ở Liên Xô, Trung Quốc, Mông cổ, Đông Âu,
Đông Dương, Phi châu, Afghanistan và nhiều nước châu Mỹ Latin – chủ nghĩa cộng
sản đã làm thiệt mạng ít nhất 65 triệu người, theo nghiên cứu cẩn thận của các
nhà dân số học.
Những công cụ hủy diệt
của chủ nghĩa cộng sản bao gồm việc trục xuất hàng loạt, các trại cưỡng bức lao
động và sự khủng bố của nhà nước cảnh sát – một mô hình được
lập ra bởi Lenin và đặc biệt là người kế tục ông là Joseph Stalin. Mô
hình này được nhân rộng nhiều nơi. Dù chủ nghĩa cộng sản đã cố ý giết chết một
lượng lớn người dân nhưng thậm chí còn nhiều nạn nhân hơn đã chết vì nạn đói –
hậu quả của những dự án tàn bạo về cải tạo xã hội.
Với những tội ác
mang “tầm sử thi” này, Lenin và Stalin phải chịu trách nhiệm cá nhân, cũng
như Mao Trạch Đông ở Trung Quốc, Pol Pot ở Campuchia, gia tộc họ Kim
ở Bắc Hàn và các nhà độc tài cộng sản khác ít tàn bạo hơn. Nhưng
chúng ta đừng bỏ qua các ý tưởng đã thôi thúc những kẻ độc ác này tàn sát con
người trên quy mô lớn như vậy, cũng đừng quên cái bối cảnh dân tộc thôi
thúc họ đi theo các ý tưởng này. Sự nghiệp chống chủ nghĩa tư bản hấp
dẫn họ do tính đúng đắn của chính nó và trong tâm trí họ, đó cũng là công cụ để
các quốc gia chậm tiến nhảy vọt lên, đứng vào hàng ngũ các cường quốc.
Giờ đây, cuộc cách
mạng cộng sản chủ nghĩa đã lụi tàn, nhưng một trăm năm của nó, xét như một sự
nghiệp vĩ đại chống chủ nghĩa tư bản, vẫn đòi hỏi một sự phân xử thích hợp.
Vào tháng Hai năm
1917, Nga hoàng Nicholas đệ Nhị thoái vị dưới áp lực của các tướng lĩnh, những
người lo ngại rằng các cuộc biểu tình và tuần hành đòi cơm áo ở thủ đô St.
Petersburg đang làm xói mòn nỗ lực chiến tranh chống Đức và các nước đồng minh
của nó. Cuộc Cách mạng tháng Hai, như tên gọi biến cố ấy, lập ra một chính phủ
lâm thời không do người dân bầu lên; chính phủ này cầm quyền mà không có một
nghị viện dân cử. Nông dân bắt đầu giành lấy ruộng đất và các xô-viết (tức
là các ủy ban chính trị) bắt đầu được thành lập trong binh lính ở
chiến trường, cũng giống như các xô-viết đã được lập ra trước đó trong các nhóm
chính trị ở đô thị.
Mùa thu năm ấy, khi
chiến tranh diễn ra ngày càng dữ dội, những người bolshevik của
Lenin đã tiến hành một cuộc khởi nghĩa vũ trang, huy động được có lẽ không quá
10.000 người. Cuộc đảo chính của họ không nhắm lật đổ chính phủ lâm
thời từ lâu đã trở nên dở sống dở chết; thay vì vậy họ chống lại các xô-viết
chính ở thủ đô do những người xã hội chủ nghĩa ôn hòa hơn thống trị. Cuộc Cách
mạng tháng Mười bắt đầu là một cuộc lật đổ chớp nhoáng mà những người cánh tả
cấp tiến thực hiện để chống lại phần còn lại của cánh tả, thành phần tố cáo
những người bolshevik vi phạm quy tắc và sau
đó đã bỏ ra khỏi các xô-viết.
Những người bolshevik,
cũng như nhiều đối thủ của họ – là môn đệ trung thành của Karl Marx, nhà tư
tưởng cho rằng đấu tranh giai cấp là động lực vĩ đại của lịch sử. Cái mà ông
gọi là chế độ phong kiến sẽ phải nhường chỗ cho chủ nghĩa tư bản, rồi đến lượt
mình, chủ nghĩa tư bản sẽ bị thay thế bằng chủ nghĩa cộng sản và cuối cùng là
một thế giới đại đồng không tưởng xa xăm! Marx hình dung ra một kỷ nguyên mới
của tự do và sung túc, và điều kiện tiên quyết của nó là sự phá hủy “chế độ nô
lệ tiền lương” và sự bóc lột của chủ nghĩa tư bản. Như ông và người cộng sự
Friedrich Engels từng tuyên bố trong Tuyên ngôn Cộng sản năm 1848, học thuyết
của họ “có thể được tóm gọn trong một câu đơn nhất: bãi bỏ quyền tư hữu”.
Một khi đã giành được
quyền lực vào đầu năm 1918, những người bolshevik tự đổi tên
thành đảng Cộng sản và họ tìm cách buộc nước Nga phải cấp tốc
đi lên chủ nghĩa xã hội, đi tới giai đoạn cuối cùng của lịch sử. Hàng
triệu người bắt đầu tập sống theo những phương cách mới. Tuy nhiên không ai
biết chính xác xã hội mới sẽ ra làm sao. “Chúng tôi không thể mô tả đặc điểm
của chủ nghĩa xã hội. Chúng tôi không biết, chúng tôi không thể nói chủ nghĩa
xã hội sẽ như thế nào khi nó đạt đến hình thức hoàn hảo của nó”, Lenin kết
luận như vậy vào tháng Ba năm 1918.
Nhưng với họ có một
điều rõ ràng: chủ nghĩa xã hội không giống chủ nghĩa tư bản. Chế độ xã hội chủ
nghĩa thay thế quyền tư hữu bằng sở hữu tập thể, thị trường thay bằng kế hoạch
hóa và các nghị viện “tư sản” thay bằng “quyền lực nhân dân”. Tuy vậy vào
thời điểm đó ngay cả một số người cộng sản đã rút ra kết
luận là trong thực tế không thể nào thực hiện được kế hoạch hóa khoa
học. Còn công cuộc tập thể hóa quyền tư hữu đã đem lại
quyền lực không phải cho nhân dân mà cho nhà nước.
Quá trình do người
cộng sản phát động đã kéo theo sự bành trướng rộng rãi một guồng máy công an
mật vụ để xử lý các vụ bắt bớ, lưu đày trong nước và hành quyết những
“kẻ thù giai cấp”. Việc tước quyền sở hữu của các nhà tư bản cũng làm giàu cho
một giai cấp mới các cán bộ nhà nước, những người nắm quyền kiểm soát tài sản
quốc gia. Tất cả các đảng phái và quan điểm nằm bên ngoài học thuyết chính
thống đều bị đàn áp, chính trị như là một cơ chế để điều chỉnh bị xóa bỏ.
Những mục tiêu được
tuyên bố của cuộc cách mạng năm 1917 là sự sung túc và công bằng xã hội, nhưng
sự tiêu diệt chủ nghĩa tư bản đã sinh ra những cơ cấu làm cho các mục tiêu đó
không bao giờ đạt được.
Ở khu vực đô thị, chế
độ xô-viết có khả năng dựa vào lực lượng công nhân nhà máy có vũ trang, những
người mới kết nạp đảng đầy nhiệt huyết và công an chìm, dựa vào những người trẻ
nôn nóng xây dựng thế giới mới. Nhưng ở nông thôn, người nông dân – có khoảng 120
triệu người như vậy – đã thực hiện cuộc cách mạng của riêng họ, lật đổ giới quý
tộc và thiết lập trong thực tế quyền sở hữu ruộng đất của nông dân.
Với một đất nước bị
tàn phá đang đi tới bờ vực của nạn đói, Lenin bắt buộc các cán bộ đảng còn miễn
cưỡng phải chấp nhận cuộc cách mạng riêng rẽ của nông dân trong thời điểm đó. Ở
nông thôn một nền kinh tế gần giống kinh tế thị trường vẫn được cho phép vận
hành, bất chấp sự phản đối của các đảng viên cộng sản thuần túy.
Khi Lenin qua đời vào
năm 1924, sự nhân nhượng với nông dân đã trở thành vấn đề của Stalin. Cho đến
năm 1928, có chưa tới 1% diện tích đất canh tác đã được hợp tác hóa một cách tự
nguyện. Vào thời điểm ấy, phần lớn các nhà máy chủ yếu đều đã do nhà
nước làm chủ và chính quyền đã cam kết một kế hoạch 5 năm công nghiệp hóa. Các
nhà cách mạng bực tức khi thấy giờ đây Liên Xô có hai hệ thống không tương
thích với nhau – chủ nghĩa xã hội ở thành phố và chủ nghĩa tư bản ở làng quê.
Stalin đã không trì
hoãn. Ông áp đặt công cuộc tập thể hóa cưỡng bức trên toàn quốc, từ ven biển
Baltic tới ven bờ Thái Bình Dương, bất chấp những cuộc nổi loạn của quần chúng
nông dân. Ông đe dọa các cán bộ đảng, bảo họ rằng nếu như họ không nghiêm túc
trong việc xóa bỏ chủ nghĩa tư bản, họ hãy chuẩn bị sẵn sàng để giao quyền lực
cho những nhà tư sản đang nổi lên ở nông thôn. Ông kích hoạt cuộc chiến tranh
giai cấp chống lại “kulak” (trung nông và điền chủ), và bất cứ
ai bảo vệ họ, áp đặt hạn ngạch (quota) cho việc bắt bớ tràn
lan và lưu đày nội địa.
Stalin nói rõ nguyên
lý cơ bản về ý thức hệ của ông: “Chúng ta có thể phát triển nông nghiệp theo
kiểu kulak, kiểu nông trại cá nhân, bên cạnh trang trại
quy mô lớn” giống như ở “Mỹ và các nước khác” hay không? Ông hỏi. “Không, chúng
ta không thể. Chúng ta là đất nước Xô-viết. Chúng ta muốn xây dựng
một nền kinh tế tập thể, không chỉ trong công nghiệp mà cả trong nông nghiệp”.
Và ông đã không bao
giờ thoái lui, ngay cả khi, do hậu quả các chính sách của ông mà đất nước Nga
rơi vào một nạn đói nữa vào các năm 1931-1933. Tập thể hóa cưỡng bức trong mấy
năm ngắn ngủi đó đã cướp đi sinh mạng của khoảng từ 5 đến 7 triệu người.
Tiền lệ khủng khiếp
của Liên Xô đã không ngăn cản được các nhà cách mạng cộng sản khác. Mao Trạch
Đông, một người cứng rắn như Stalin, đã vươn lên vị trí cao nhất của phong trào
cộng sản Trung Hoa và vào năm 1949, ông và các đồng chí của ông trở thành người
chiến thắng trong cuộc nội chiến ở Trung Quốc. Mao đã thấy cái giá nhân mạng
khổng lồ trong cuộc thử nghiệm của Liên Xô như là yếu tố nội tại của thành
công!
Chính sách Đại Nhảy
Vọt của Mao, một chiến dịch bạo lực diễn ra từ 1958 tới 1962, là nỗ lực tập thể
hóa khoảng 700 triệu nông dân Trung Quốc và mở rộng công nghiệp về nông thôn.
“Ba năm lao động cần cù và chịu đựng [để có] ngàn năm thịnh vượng”, là một trong
những câu khẩu hiệu nổi bật thời đó.
Các báo cáo sai
lệch về những vụ thu hoạch thắng lợi và nông dân sung sướng vui vẻ tràn ngập
các khu nhà ở được cung cấp đầy đủ của giới tinh hoa cộng sản cầm quyền ở Bắc
Kinh. Nhưng trong thực tế, chương trình của Mao đã dẫn tới một trong những nạn
đói khủng khiếp nhất trong lịch sử, làm chết đói khoảng từ 16 đến 32 triệu
người. Sau thảm họa, mà những người sống sót nói tới như là “làn gió
cộng sản”, Mao dập tắt hết những lời kêu gọi ngừng tập thể hóa nông nghiệp. Như
ông từng tuyên bố: “nông dân muốn tự do nhưng chúng ta muốn chủ nghĩa xã hội”.
Những mất mát khủng
khiếp này vẫn không ngăn chặn được sự lặp lại tính tàn bạo cộng sản nhân
danh xóa bỏ chủ nghĩa tư bản. Sau khi chinh phục được Campuchia vào
năm 1975, Pol Pot và phe Khmer Đỏ của ông ta đã đuổi hàng triệu người ra khỏi
các thành phố, đẩy họ về nông thôn làm việctrong các công xã và
các dự án cưỡng bức lao động. Họ tìm cách biến Campuchia thành một xã hội thuần
nông không có giai cấp.
Khmer Đỏ bãi bỏ đồng
tiền, cấm đánh bắt cá để kinh doanh, hành quyết các tu sĩ Phật giáo, Hồi
giáo; các cộng đồng thiểu số gốc Việt và gốc Hoa của đất nước bị coi là “kẻ xâm
nhập”. Chế độ của Pol Pot cũng tập trung trẻ em để ngăn ngừa việc chúng
bị lây nhiễm ý thức hệ từ cha mẹ “tư bản” của chúng.
Được biết đã có khoảng
2 triệu người Campuchia, tương đương một phần tư dân số vào thời ấy, đã chết vì
đói rét, bệnh tật, bị hành quyết hàng loạt trong bốn năm ác mộng dưới ách
cai trị của Pol Pot. Ở một số khu vực, ao chuôm nào đào lên cũng thấy
sọ người.
Phân tích về giai cấp
của Marx bác bỏ tính chính danh của mọi phong trào chính trị đối lập,
không chỉ từ các phần tử “tư sản” mà từ ngay bên trong các phong trào cộng sản
– bởi vì những người đối lập phục vụ “một cách khách quan” cho lợi ích của trật
tự tư bản quốc tế. Cái lô-gic về cách mạng không ngừng nghỉ chống chủ nghĩa tư
bản sẽ chỉ tới một lãnh tụ duy nhất trên đỉnh một hệ thống độc đảng.
Từ Nga tới Trung Quốc,
từ Bắc Hàn tới Cuba, các nhà độc tài cộng sản đều chia sẻ những đặc điểm chung
chủ yếu. Tất cả đều ít nhiều tuân theo khuôn mẫu của Lenin: một sự pha trộn hệ
tư tưởng đấu tranh với những thủ đoạn vô nguyên tắc. Và tất cả đều có sức mạnh
ý chí tuyệt vời – điều kiện tiên quyết để thủ đắc những gì chỉ có sự
đổ máu không tính nổi mới có thể mang lại.
Tuy nhiên, trong thế
kỷ vừa qua chủ nghĩa cộng sản không phải là tác nhân duy nhất thực hiện các vụ
tàn sát. Sự đàn áp của chủ nghĩa quốc xã (Nazi), những cuộc chiến
tranh thanh lọc sắc tộc cũng đã giết hại khoảng 40 triệu người. Và trong thời
Chiến tranh Lạnh, phong trào chống cộng sản đã kích hoạt những cơn
bùng phát bạo động bất ngờ và dữ dội ở Indonesia, châu Mỹ Latinh và nhiều nơi
khác.
Nhưng bằng chứng về
nỗi kinh hoàng cộng sản nổi lên liên tục trong nhiều thập niên đã gây sốc nặng
cho những người cánh tả và theo tư tưởng tự do ở phương Tây, những
người cùng chia sẻ nhiều mục tiêu công bằng xã hội của các
nhà cách mạng. Nhiều người phản đối Liên Xô đã làm méo mó chủ nghĩa xã hội, và
quy những tội ác của chế độ Xô-viết cho tình trạng lạc hậu của nước Nga, cho
tính khí của Lenin và Stalin. Dù sao, Marx không bao giờ ủng hộ việc tàn sát
hàng loạt hoặc các trại lao động kiểu Gulag. Không tìm đâu thấy ông
biện luận rằng công an chìm, trục xuất người trên xe chở súc vật và chết đói
hàng loạt là những biện pháp nên dùng để thiết lập các trang trại tập thể.
Nhưng nếu chúng ta
phải học có một bài học từ một thế kỷ cộng sản thì đó chính là: để thực thi các
lý tưởng của Marx thì cần phải phản bội chúng. Đòi hỏi của Marx “bãi bỏ quyền
tư hữu” là tiếng kèn xung trận kêu gọi hành động – nhưng cũng là con đường kiên
định dẫn tới sự hình thành nhà nước đàn áp, không bị kiểm soát.
Một số nhà xã hội chủ
nghĩa bắt đầu nhận ra rằng, không thể có tự do nếu không có thị trường và sở
hữu tư nhân. Khi họ bắt đầu giải hòa với sự tồn tại của chủ nghĩa tư bản, hy
vọng sẽ điều tiết thay vìxóa bỏ nó, họ bị cáo buộc là những kẻ phản bội.
Theo thời gian, ngày càng có nhiều nhà xã hội chủ nghĩa chấp nhận kiểu nhà nước
phúc lợi, hoặc kinh tế thị trường có sự phân phối. Nhưng
tiếng còi kêu gọi vượt qua chủ nghĩa tư bản vẫn còn vang vọng trong
một số người cánh tả.
Những thành trì cố thủ
quan trọng của thế kỷ cộng sản vẫn còn tồn tại, dù không theo kiểu Marxist
chính thống, ở Nga và Trung Quốc. Cả hai quốc gia này vẫn tiếp tục hoài nghi
những gì có lẽ là quan trọng nhất của thị trường tự do và sở hữu tư nhân: khả
năng đem lại cho người dân thường sự độc lập trong suy nghĩ và hành động, cho
họ quyền theo đuổi những lợi ích của chính họ mà họ thấy phù hợp, trong đời
sống riêng tư, xã hội dân sự và không gian chính trị.
Nhưng chống chủ nghĩa
tư bản còn được sử dụng như một chương trình thay thế trật tự thế
giới bằng một trật tự mới, trong đó những mục tiêu dân tộc chủ nghĩa từ lâu bị
đè nén sẽ được hiện thực hóa. Đối với Stalin và Mao, người thừa kế những nền
văn minh cổ đầy tự hào, châu Âu và Hoa Kỳ đại diện cho sức cám dỗ và mối đe dọa
của một phương Tây siêu việt. Những người cộng sản tự đặt ra cho mình nhiệm vụ
phải đuổi kịp và vượt qua các đối thủ tư bản chủ nghĩa và giành cho đất nước
mình vị thế trung tâm trên sân khấu quốc tế. Cuộc đấu tranh cách mạng cho phép
nước Nga thỏa mãn cái ý thức kéo dài nhiều thế kỷ về sứ mệnh đặc biệt của mình
trên thế giới, trong khi nó cho Trung Quốc cơ hội để tuyên xưng một lần nữa là
Vương quốc Trung tâm.
Sự chống đối phương
Tây của Vladimir Putin, cùng với sự pha trộn đặc thù của ông trong
đó niềm hoài vọng về thời đại Xô-viết hòa với sự phục hồi Chính
thống giáo Nga, được xây dựng trên tiền lệ của Stalin. Về phần mình, tất nhiên
Trung Quốc vẫn là cường quốc cộng sản cuối cùng, ngay cả khi Bắc Kinh quảng bá
và cố gắng kiểm soát một nền kinh tế phần lớn là thị trường. Giờ đây, dưới
quyền ông Tập Cận Bình, đất nước này vừa đi theo hệ tư tưởng cộng sản vừa khai
thác văn hóa truyền thống Trung Hoa trong nỗ lực nâng cao vị thế quốc gia như
là một sự thay thế phương Tây.
Thế kỷ máu của chủ
nghĩa cộng sản đã đi tới lúc kết thúc, và chúng ta có thể bày tỏ niềm
vui về sự lụi tàn của nó. Nhưng những khía cạnh đáng lo ngại trong di
sản của nó thì vẫn còn dai dẳng!
Và
cuối thập 80, đầu thập kỷ 90 sự tan rã, tan tành của cộng đồng xã hội chủ nghĩa
hoang tưởng, nhân loại mới hiểu được cái nhìn thấu thị Đôxtôiepxki qua nhân vật
trưởng lão Zôxima đầy lòng nhân ái, hiển minh. Cái nhìn thiên tài của
Đôxtôiepxki hay cái nhìn thiên tài của cha Zôxima vượt qua tầm thế kỷ mà không
một nhân vật đương thời nào hiểu nổi. Dù cho đó là cha, Phó Giáo chủ Phrôlô, cha Ralphơ người bao quát trí thức đương thời.
Ngay cả Abert Camus (giải Nobel văn học
1957 - người Pháp) sau gần một thế kỷ lời tiên đoán của Đôxtôiepxki mới nói được:
"Sự mâu thuẫn vỹ đại. Vả lại dù sao đi nữa chính ý nghĩa của thực tại, và
xã hội chủ nghĩa đã trái nghịch nhau rồi. Vì thật thế, một hiện thực xã hội chủ nghĩa làm sao có thể thực hiện
được khi thực tại không hoàn toàn có tính chất xã hội chủ nghĩa (12) và Camus mới
nói tiếp được: "Từ xương máu mồ hôi của nhân loại người sẽ thấy nẩy
sinh ra một thứ văn chương vô nghĩa, những
báo chí ngoan ngoãn, những bài tường thuật nghèo nàn như ảnh chụp và những tác phẩm bị chỉ huy, trong
đó lòng hận thù thay cho tín ngưỡng." Với lòng tin bất diệt vào ý niệm chân tu của mình, cha Zôxima vượt
lên trên hiện thực của thời một thời mình sống, một thời của cái xã hội rối
ren, một xã hội đổ vỡ từ cội nguồn của một gia đình. Tiêu biểu là gia đình Nga
- "Gia đinh anh em nhà Karammazốp".
Một gia đình mà ở đó con người không có lòng tin, những kẻ báng bổ tín
ngưỡng từ người cha Pavlovits đến người
con Ivan Fiodorovits đều mất niềm tin, đều báng bổ lại đấng Christ. Một gia
đình như một cộng đồng nhân loại thu nhỏ tan nát bởi vì vô luân, vì xâu xé
nhau. Một gia đình đang tâm làm mọi cái ác trên đời nếu có thể làm được từ việc
chửi rủa cho đến việc giết cha và giết đồng loại.
Cha
Zôxima có cơ sở tin tưởng vào việc thực hiện cái thiện của mình, lòng nhân ái của
mình trên chân lý đức tin, trong sự
thánh thiện của nghiệp chân tu, trong quan niệm xây dựng một chính thể có trật
tự từ trên xống. Với đức tin mang trong mình như Thánh Kinh, cha Zôxima xây dựng
lòng nhân ái đúng đắn khi cha có quan niệm đúng đắn ở một xã hội mà quan hệ chủ
và tớ là quan hệ anh em. Đây là cái điều hiện thực hơn, có ý nghĩa thực tế hơn,
chứ không phải là điều hảo huyền, điều mơ ước của những người nhân đạo chung chnung như những người
theo chủa nghĩa Mác không tưởng:
"Ta
nghĩ ngày mai hết đói nghèo
Hết
tù, hết tội, hết gieo neo
Trong
ngoài bốn bể anh em cả
Ôi đẹp
vườn xuân những sớm chiều"
(Xuân
Thủy - Thơ ca cách mạng Việt Nam)
Cái xã
hội đẹp như pha lê ấy, làm chung ăn chung, cái xã hội ấy nó nằm ngoài cõi trần
thế và nó cũng chẳng nằm ở đâu trong vũ trụ này. Con người với thực tế của
mình, cứ nhìn vào thực tế của mình trên cái xã hội chuồng gà của mình mà thực
thi lòng nhân ái. Lòng nhân ái ấy có thực hơn. Những kẻ yêu nhân loại chung
chung hóa ra chẳng bao giơ yêu ai cả. Xây dựng được cái quan hệ chủ tớ tốt thì
sẽ có lòng yêu thương thân ái. Cái đó thực ở cõi đời. Đừng nên phụ người
"phụ người chẳng bỏ khi người phụ
ta (13). Đừng nên thà ta phụ người, chứ nhất quyết không để người phụ ta
(14). Cha Zô xi ma khi nhìn thực trạng xã hội Nga, dân chúng bải hoại vì rượu,
họ tàn ác với gia đình, trẻ con ở các xưởng máy còm cõi vì bạo lực và đã trụy lạc...
Hãy làm sao đừng có tình trạng ấy. Hãy đứng lên truyền đạo lý, lòng nhân ái.
Chúa Trời sẽ cứu nước Nga. Bởi vì nước Nga vỹ đại là ở sự quy thuận của mình.
Cha Zôxima nói: "Phải tôn trọng tôi tớ. Đối xử với họ như cùng đồng loại với
mình". Cha Zôxima cũng hiểu rằng nếu toan tính tổ chức một hội khước từ Đấng
Chrit, tức là lòng nhân ái, thì sẽ làm cho thế gian này ngập máu, bởi vì máu sẽ
gọi máu, máu sẽ trả máu, kẻ vung kiếm sẽ chết vì kiếm. Nếu không có lơi hứa của
Đấng Chrit thì họ sẽ tiêu diệt nhau cho đến người cuối cùng trên trái đất này
và người cuối cùng sẽ tự giết mình. Ở phương Đông cũng vậy. N ếu lấy oán báo
oán, oán oán chất chồng; lấy ân báo oán, oán sẽ tiêu tan" (15). Cha Zôxima
làm điều từ thiện vì tình yêu những người hiền lành và quy thuận.
Cha
Zôxima cũng đã từng kêu gọi khi yêu thương con người dù là trong quan hệ chủ tớ, nhưng không nên sợ tội lỗi, phải
yêu con người trong tội lỗi của họ, đó chính là tình yêu cực đỉnh. Đó là tình
yêu cực đỉnh trên thế gian. Đó là tình yêu có thực để tiếp xúc với một thế giới
khác. Cha Zô xi ma nghĩ rằng có tình yêu ấy thì con người mới có tình yêu thế gian với một tình yêu bao trùm lên tất cả.
Cha Zôxima khuyên hãy yêu loài vật, đừng chọc
giận chúng, đừng hành hạ chúng, đừng lên mặt với chúng, chúng không có tội
lỗi, chỉ có con người mới có tội lỗi. Hãy yêu loài vật để giảm bớt tội lỗi của
mình. Cha Zôxima kêu gọi hãy yêu trẻ em.
Trẻ em
không có tội lỗi , trẻ em là thiên thần, trẻ em làm cho tâm hồn người lớn thêm
trong sáng, thêm thanh sạch. Đau đớn thay, nếu ai đó trong chúng ta xúc phạm trẻ
em. Tấm lòng nhân ái này của cha Zôxima thấm nhuần lòng nhân ái của Chúa thượng!...
Người ta đem trẻ em đến cùng Chúa để
ngài rờ chúng. Môn đồ bèn rầy la họ. Jesus thấy vậy nổi. giận mà phán cùng họ rằng:
"Hãy để trẻ con đến cùng ta, đừng cấm chúng nó, vì nước Đức Chúa Trời thuộc
về chúng nó. Quả thật, ta nói cùng các ngươi, hễ ai chẳng nhận nước Đức Chúa Trời
như một con trẻ, thì hẳn chẳng được vào đó". Ngài bèn ẳm chúng nó đặt lên tay mà chúc phước
cho nó. (16)
Để có
lòng yêu trẻ con, cha Zôxima cũng phải lăn lóc trong bể khổ
Cha đã tự bạch. Chính cha Anfim đã truyền đạt
cho cha yêu con trẻ. Những ngày đi hành hương người cha Anfim trầm lặng dễ
thương đã ban phát bánh kẹo cho trẻ. Cử chỉ ấy tác động sâu sắc đến Zôxima , mới
có lòng yêu thương trẻ em Sau này cha Zô
xi ma mới có lòng yêu thương trẻ em thắm thiết gắn với Chúa như vậy.
Cha
Zôxima yêu thương và có luận thuyết về sự yêu thương. Những luận thuyết yêu
thương của lòng nhân ái bắt nguồn từ cuộc sống, từ cuộc đời của cha trải qua cơ
sở thực tế. Không có một cơ sở lòng yêu thương nào của cha Zôxima là gượng ép,
là đi nói theo giáo lý của kẻ rao giảng nào. Từ cuộc đời cha và cuộc đời của
nhiều người mà cha biết và của Chúa, để cha hun đức nên lòng nhân ái của mình.
Lòng nhân ái của cha được nuôi dưỡng từ cội nguồn gia đình. Cha lúc nào cũo cha
Zôxima nhớ tới người anh yểu mệnh của mình.. Chính nỗi hoài niệm ấy tăng thêm
lòng nhân ái cho cha Zôxima. Người anh của cha từ thuở nhỏ lúc nào cũng xin
chim chóc, trẻ em tha thứ. Cha biết rằng làm như vậy lòng người nhẹ nhõm hơn,
tình yêu sẽ bao trùm hơn, lòng vị tha được nhân lên.
Có lòng nhân ái hiền minh, cha Zôxima đã kêu gọi
con người vượt lên tội lỗi. Hoàn cảnh xấu, sức mạnh tội lỗi không thể lấn át
khi con người có gan thực thi đạo tốt lành của mình. Cha kêu gọi chỉ có cách cứu
rỗi hãy can đảm coi mình là người chịu trách nhiệm về tất cả các tội lỗi của mọi
người thành tâm, bạn sẽ đi đến gần nước Chúa hơn. Cha Zôxima cũng nhắc nhở, nếu
trút sự lười nhác và tội lỗi lên người khác thì nhiễm phải thói hung hãn của quỷ
Sa tăng, con người lại đi về phía cái ác. Địa ngục tất nhiên không thể tránh khỏi.
Cha Zôxima cũng nhắc nhở thêm cho ai, kể cả quan tòa khi chính mình cũng đang
là kẻ phạm tội. Hãy tha thứ như Chúa. Một lần Phê rô hỏi Chúa: "Anh em phạm
lỗi thì bày lần tha thứ được không?". Chúa mới trả lời: "Nếu anh em
phạm lỗi ta không những bảy lần tha thứ mà bày mười lần tha thứ". Ý Chúa
cũng như ý cỏ nhân phương Đông: "Dữ thiên nhân" (Đối với người thì
thương yêu hết thảy, hay "Điềm đạm vi thương" (Điềm đạm là hơn)) (17).
Conngười làm việc lành sẽ được cứu rỗi. Cha Zoxima nhắc nhở điều ấy. Bởi vì cha
hiểu cái nghĩa lý của đời. Người công chính qua đời thì ánh sáng còn lại.
Cha
Zôxima thống thiết kêu gọi: "Hãy là người hiền minh và luôn luôn cao quý. Phải
biết chừng mực, hãy thương yêu, hãy học biết điều đó, hãy lánh mình đi và cầu
nguyện. Hãy yêu mến đất và sập mình xuống hôn đất. Hãy hôn đất, lại hãy yêu
thương không ngững (Cha Zôxima luôn luôn kêu gọi như thế). Hãy yêu, hãy yêu
không biết chán, yêu tất cả mọi người, yêu tất cả mọi vật, hãy tìm kiếm sự hân
hoan và cuồng loạn ấy. Hãy làm cho mặt đất thấm nước mắt vui sướng của các bạn
và yêu những giọt lệ ấy của bạn. Đừng hổ thẹn về sự cuồng loạn ấy, hãy yêu quí
nó vì đó là ân sủng của Chúa ban cho, một ân sủng cực kỳ lớn lao mà không mấy
người hưởng được, chỉ có những người biết yêu thương có tấm lòng nhân ái hiền
minh mới có thể có ân sủng ấy".
Cha
Zôxima thể hiện lòng nhân ái hiền minh, lòng nhân ái có con mắt suy xét là như
vậy. Lòng nhân ái ấy không bao giờ mù quáng, lòng nhân ái ấy đem lại tình
thương thiết thực cứu rỗi loài người giữa cái ác đang ngtrị trêncõi dương thế.
Lòng nhân ái hiền minh của cha Zôxima đối lập lại tất cả, cái ác và chính thể cầm
quyền thống trị đương thời và hậu thế. Những
kẻ cầm quyền khi đi ngược lại quyền lợi của nhân loại bao giờ cũng thích làm
cái ác. Mặc dầu họ che giấu ngụy trang dưới nhiều hình thức lương thiện giả vờ.
Nhưng cái ác vẫn lộ ra. Hàn Phi Tử có nói: "Kẻ cầm quyền không cần lương
thiện". (18) Mao Trạch Đông cũng nói: "Làm cách mạng không cần
phải lịch sự, chỉnh chu. Cách mạng tất nhiên có kẻ bất hạnh và có kẻ không bất
hạnh. Nó không phải là buổi diễn thuyết có văn vẻ". (19). Hàn Phi Tữ cũng
lại nói: " Làm chính trị cũng như kẻ gội đầu, có phải bỏ sợi tóc nào cũng
phải làm" (20)
Những kẻ ác nhất định phải xuống địa ngục. Điều
đó đã được chứng minh trong hàng ngìn năm của nhân loại và trong kiệt tác "Anh em nhà Karammazôps.
Những kẻ làm điều ác đều bị cõi linh thiêng trừng phạt. Một Ivan Fiôđôrôvits, kẻ
thiết kế tiến trình giết cha, kẻ đang tâm làm điều ác phi luân, đầu óc bất tỉnh.
Xmerđiakôp tự mình treo cố kết liễu đời mình. Rồi Fiôdôr Pavlôvits bôi nhọ các bậc chân tu, đam mê nhục dục,
tranh giành tình yêu với con cái, phỉ báng Chúa, không làm điều thiện bị chính
đứa con hoang của mình là Xmerđiakốp giết
chết. Một KateriaIvanôvna tới phút cuối cùng, trước một con người bị án oan thế
mà vẫn lên tiếng vu oan giáng họa để phải tan nát gia đình và mất cả tình yêu .
Khác với
triết lý kẻ ác, cha Zôxima nghiệm rằng ngoài " tôi tư duy là tôi tồn tại"
(21), còn một mệnh đề nữa mà cha Zôxima biết là" tôi tồn tại bởi vì tôi
yêu". Tình thường có sứ mệnh vĩnh hằng như vậy.
Nếu
không có tình yêu và tình thương, không có đức tin, không có lòng nhân ái hiền
minh những kẻ đó chỉ ở trong địa ngục khổ đau. Vì họ không yêu được nữa. Những
kẻ ác kiêu ngạo ấy sẽ tự hút máu mình trong sa mạc cô đơn, những kẻ ấy đời đời
không đến được với Chúa Trời hằng sống. Họ đời đời cháy rong ngọn lửa đố kỵ của
họ, họ đến với cái chết hư vô.
*
* *
Tiểu thuyết gia vỹ đại Đôxtôiepxki cũng như nhiều
tiểu thuyết gia vĩ đại khác của Nga và của
thế gới đều bằng tài năng nghệ thuật của minh tạo nên những nhân vật sống động,
có cuộc sống khác thường mà nhiều khi người xây dựng, sáng tạo ra nó cũng không
ngờ mình đạt một thành tích kỳ vỹ đến thế.
Nghệ thuật
xây dựng các nhân vật của Đôxtôiepxki đều như vậy. Các nhân vật của ông đều đạt
cả chiều cao lẫn chiều sâu, chiều rộng lẫn chiều dài. Nhân vật và tác giả hòa
làm một. Hai người như hình với bóng. Ta là người như là một, ta với người như
một ma hai (22). Ba khtin đã chỉ rõ tính đa diện, đa thanh, đa chiều của các
nhân vật Đôx tôiepxki . Nhân vật của Đôxtôiepxki có tính độc lập, tự chủ, tự động
ở bên trong, khi đã thành công nó hầu như sống theo bản năng của nó mà rất ít
chịu sự chi phối của tác giả... Tiếng nói, lời phát ngôn của nhân vật có giá trị
như lời phát ngôn, tiếng nói của tác giả. Các nhân vật của Đôxtôiepxki bao giờ
cũng hiện hữu như chính bản thân mình, với trí não, lương tâm của mình mà không một ai có thể chi phối được. Vì vậy,
tâm tư tình cảm của nhân vật hiện lên một cách đầy đủ như cuộc sống đời thường
nhiều dạng, nhiều hình.
Nhân vật
cha Zôxima, Đôxtôixki dành cả tâm huyết, trải nghiệm của đời mình, lấy đời mình
làm nguyên mẫu, nhà văn đổ công sức ,tâm huyết của mình vào nhân vật này. Và nó
thành công rực rỡ. Nhân vật cha Zôxima hiện lên như là đại biểu cho cái thiện,
cho lòng nhân ái, là ánh sáng công chính
xóa tan cái ác đang ngự trị trên thế gian. Điều này chính Đôxtôiepxki cũng
không ngờ tới là nó có kết quả như vậy.
Nhưng sau một thế kỷ, chúng ta thấy rằng những
điều lo lắng của Đôxtôiepxki không xảy ra. Ngược lại nhân vật cha Zôxima bất tử.
Nó sống thật hơn tất cả những bậc minh triết, nhân ái nào sống thật trên cõi đời
này.
Ta thấy rằng Vichto Huygô xây dựng cũng rất
thành công nhân vật cha Phó Giáo chủ Phrôlô. Nhà văn đã thành công xây dựng nên
một người coi linh hồn của chúng sinh,
nhưng đã trở thành nạn nhân của chính minh. Đã dễ cho giáo lý bị bẻ cong bởi bản
năng tự nhiên của con người. Bởi vì trong ước muốn của đời thực, trong cha
Phrôlô vẫn trổi dậy thân xác bị ẩn ức luôn luôn bừng trỗi dậy. Sự giằng xé giữa
tâm linh, giữa thiện và ác, giữa thượng giới và trần thế, giữa giả nhân giả
nghĩa và chân thực bao trùm lên người thầy tu và biến người thầy tu thành quỷ dữ!
Cha phơ
trong " Những con chim ẩn mình chờ
chết" cũng vậy. Nói chung sự thành của hai tiểu thuyết gia này cũng tầm cỡ
thế giới. Nhưng có điều, mô tip phản diện ấy không mới và cũng có nhiều tiểu
thuyết gia khác xây dựng và cũng thành công. Đôxtôiepxki xây dựng một con người
chân tu đắc đạo về cuối đời đạt được toàn bích mà hợp lý, hợp tình, hướng cho
nhân loại có niềm tin vào cái thiện. Điều đó càng có giá trị, ý nghĩa nghệ thuật nhân lên gấp hai. Quả thật
như vậy, những ý kiến của Zôxima, những luận thuyết nhân ái của cha, những việc
làm của cha là tấm gương cho hậu thế noi theo sống và làm được như thế. Nếu con
người sống và làm được một phần nhỏ như cha Zôxima mong muốn thì thế giới này sẽ
bớt đi bao nhiêu là máu đổ vô nghĩa. Nếu con người làm điều thiện và đừng
có "thắng ni bất mỹ" (thắng trận
đâu có tốt) thì hàng nghìn năm qua nhân loại sẽ không có cảnh núi xương sông
máu 23).
Cuối
cùng điều mà cha Zôxima chỉ ra là làm thức tỉnh nhân loại đừng để cái ác hoành
hành. Cái ác hoành hành không nhân danh được ai, không tạo ra một giá trị hữu
ích cho nhân loại. Chỉ có cuối cùng nó đưa nhân loại đến con đường tiêu diệt lẫn
nhau. Sau một thế kỷ, điều tiên đoán thiên tài cị cái ác chế ngự, nhân loại làm
sao hiểu được cái áca cha Zôxima cũng là của Đô xtôiepxki đã thành sự thực làm
cho nhân loại bừng tỉnh.
Nhân vật
cha Zôxima là một điển hình. Tác phẩm "Anh em nhà Karammazốp là một kiệt
tác. Nó làm bộ mặt nhân loại thêm khả kính, thêm đáng yêu. Đúng như Abert
Camuas đã nói : " Bí quyết của một kiệt tác là làm cho bộ mặt nhân loại
thêm đáng yêu, khả kính". (24)
*
* *
Đốt
(**) là một trong những thiên tài hiếm hoi, thiên tài của cái thiện, của lòng
nhân ái. Qua nhân vật cha Zôxima, ta thấy Đôxtôixki là một nhà nhân ái thiên
tài, một tiếng chuông thức tỉnh và cảnh báo cho nhân loại . Nhưng nhân loại bị
cái ác chế ngự, nhân loại làm sao hểu được những tiên đoán của Đôxtôiepxki. Chỉ
có thời gian mới làm cho nhân loại bừng tỉnh khỏi cái sự u mê, mê muội của
mình. Bao nhiêu là máu đổ ra bởi những kẻ ác, bởi những bạo chúa lấy con người
ra làm vật thí nghiệm cho những mưu mô, những trò chơi, những đam mê, những dục
vọng cá nhân của mình.
Đôxtôiep xki không chỉ là nghệ sĩ lớn nhất ở thế kỷ XIX mà còn lớn nhất
mãi mãi sau này!
Nhưng
ta cũng không nên quên rằng, trong thế giới quan sáng tác của Đôxtôiepxki cũng
chứa đựng nhiều mâu thuẫn sâu sắc, những mâu thuẫn này thường bộc lộ trong sáng
tác của nhà văn. Đó cũng là hạn chế tất yếu về lịch sử mà Đôxtôiepxki sống
trong thời đại của mình.
Những
người Việt Nam chúng ta, tuy được tiếp xúc, được đọc Đôxtôiepxki muộn màng,
nhưng chúng ta cũng đủ yêu mến, kính trọng ông với một sự khâm phục bội phần, một
sự ngưỡng vọng tài năng vô song của một thiên tài có cái nhìn nghệ thuật thấu
thị.
Chúng
ta học tập ở ông rất nhiều trong cách sống, cách viết, thái độ trước cuộc sống,
trước cái ác; học tập ở lòng nhân ái hiếm có để làm cho cuộc đời có ý nghĩa
hơn. Con người sống xích lại gần với nhau hơn. Và một ngày nào đó, khi cái thiện
ngự trị thế gới, đẩy lùi cái ác ra một khoảng xa thì lúc ấy trên hành tinh này
sẽ bớt những mặc cảm, bớt những cuộc thác loạn, những cảnh đổ máu, con người thực
sự có đức tin, sống với đức tin!
Hà Nội,
ngày 5 - 6 - 1992
Đ - H
CHÚ THÍCH:
1 - Ý kiến
của Bakhtin - Nhà phê bình lỗi lạc Nga
2 - Ý trong Luận ngữ - Khổng tử
3 - Kinh Phật
4 - Đạo đức kinh
5 - Trích Kinh Thánh (Cựu ước và Tân ước)
6 - Ca dao & Tục ngữ Việt Nam - 2 tập
7 - Y thuật - Hải thượng Lãn ông , Lê hữu Trác.
8 - Y thuật, Hải thượng Lãn ông - Lê Hữu Trác.
9 - Vương Duy thi tập
10 - Ý Kinh Thánh.
11 - Lời Mao Chủ tịch - Bàn về mâu thuẫn.
12 - Sứ mệnh văn nghệ - Camus
13 - Lời Tào Tháo - Tam Quốc diễn nghĩa.
14 - Lời Tào Tháo - Tam Quốc diễn nghĩa
15 - Kinh Phật
16 - Kinh Thánh
17 - Đạo đức kinh
18 - Hàn Phi Tử
19 - Hàn Phi Tử
20 - Trích lời Mao Trạch Đông - Diên An khởi
nghĩa.
21 - Lời nhân vật kích Siếc pia
22 - Thơ Tản Đà - Tản Đà tuyển tập
23 - Ý Đạo đức kinh.
24 - Sw mệnh văn nghệ - Camus
SÁCH THAM KHẢO:
A - Tiếng việt:
1 - Gã khờ - Sài Gòn 1971
2 - Thằng ngốc - NXB Văn học thập kỷ 70 thế kỷ
trước.
3 - Đêm trắng - nt -
4 - Tội ác và Trừng phạt - nt -
5 - Đạo đức kinh
6 - Nam hoa kinh
7 - Tục ngữ cà ca dao Việt Nam - Tuyển tập Hồ
Chí Minh
9 - Thơ ca Cách mạng Việt Nam
10 - Sứ mệnh văn nghệ - Abret Camus
11 - Thơ Đường 2 tập - Nhà xuất bản Văn hoa
1961
12 - Khổng tử
13 - Nho Giáo
14 - Kinh Thánh
15 - Thơ văn chống Pháp
16 - Tiếng chim hót trong bụi mận gai
17 - Nhà thơ Đức Bà Paris
18 - Thơ Tản Đà
19 - Phật học
20 - Tạng thư
21 - Đạo Hồi
22 - Nhà văn Việt Nam hiện đại (ba tập)
23 - Tam Quốc diễn nghĩa
24 - Triết học Mác lênin
25 - Phê bình của Bakhin
26 - Đêm trắng
27 - Lí luận văn học Việt Nam
28 - Lê Hữu Trác - Hải Thượng Lãn Ông - Cuộc đời
và sự nghiệp y học.
29 - Hàn Phi tử
30 - Kinh Vĩnh Nghiêm
31 - Bàn về mâu thuẫn.
Tiếng Trung:
1
- Tuyển tập
Mao Trạch Đông - 毛泽东 选集
2
- Trích lời
Mao Chủ tịch - 毛 主席的话 (提取)
3
- Tam Quốc
diền nghĩa - 三国采取意义
4
- Tiểu sử
Mao Trạch Đông - 毛泽东
传记
5
- Binh
pháp Tôn tử - 孙子兵法
6
- Thơ từ
Mao Chủ tịch -毛泽东主席的诗歌
7
- Nhân
dân nhật báo (trích) thập kỷ 60 thế ký trước.- 人民日报 , 上个世纪60年代
8
- Thông
báo khoa học, văn hoc - 科学通知, 文学
9
- Nam Tư
có phải nước xã hội chủ nghĩa không? - 南斯拉夫这是- 一个社会主义国家吗?
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét