Thứ Sáu, 7 tháng 8, 2020

Đường tới thành phố - Sáo, dở, nhạt, nhắng - Tứ chứng Thi y

        


                      ĐƯỜNG TỚI THÀNH PHỐ -

    SÁO, DỞ, NHẠT, NHẮNG - TỨ CHỨNG THI Y

                             Đỗ Hoàng

  Đường tới thành phố, trường ca của Hữu Thỉnh xuất hiện đầu thập kỷ 80 thế kỷ trước (tác giả viết xong 1977 - 1978), được giải thưởng của Hội Nhà văn Việt Nam. Từ đó đến nay, văn học chính thống không biết cơ man nào tác giả, báo chí ca ngợi đưa lên mây xanh , coi nó coi nó là đại diện cho thơ chống Mỹ (!)

  Bây giờ sau gần nửa thế kỷ cuộc chiến đã tàn, tôi có dịp bình tâm, bình tĩnh đọc lại Đường tới thành phố để có nhận định đánh giá một cách công tâm về tác phẩm này!

   Trước hết,  chưa nói Đường tới thành phố ảnh hưởng Tàu lấy nông thôn bao vây thành thị, súng đẻ ra chính quyền, chưa nói dài dòng văn tự, chưa nói hay dở...mà nói nó không chính danh!

   Đường tới thành phố kể lại tâm tư của người lính, người dân phe thắng trong cuộc chiến nảy lửa hai miền Nam Bắc Việt thống nhất giang sơn. Phe miền Bắc Việt Nam đã thắng.

  Thống nhất giang sơn có ý nghĩa to lớn đối với một dân tộc, một tổ quốc. Ngày xưa người thường dung gươm đao để tranh đoạt. Thời văn mình có nhiều cách thống nhất giang sơn mà tránh được đầu rơi máu, hận thù dân tộc  như Đông Đức, Tây Đức, Ấn Độ ... vô cùng đáng quý. Việt Nam thống nhất bằng binh đao nên gây nên oán hờn hơn núi còn đến  muôn năm!

   Thật ra cuộc chiến Nam Bắc Việt Nam là một cuộc nội chiến tàn khốc bên nào cũng muồn giành chiến thắng - tức là thống nhất giang sơn. Hơn 20 năm chia cắt, hai bên đã cố hết mình với trí lực đem ra hạ thủ đối phương!

Miền Bắc Việt Nam nói xấu miền Nam Việt Nam:

"Diêm Đình Ngộ là Ngô Đình Diệm

Đầu rơi trên máy chém

Lê khắp miền Nam

Này bạn này anh

Trúng đích rồi, kìa là trúng đích rồi

Nhằm cho đích, ta ném cho tinh

Trúng đầu thằng Ngô Đình Diệm là thằng Diêm Đình Ngộ"...

(Lời bài hát trong các trường tiểu học, trung học Bắc Việt)

..."Bên kia sông không ra đỏ ra vàng

Cờ ba que hoen úa cả không gian'...

...

Mỹ,  Kỳ - Thiệu là những tên giòi bọ..."

  (Tế Hanh - Nhà thơ)

..."Chúng  xáo  trộn quê ta như xóc một ván bài

Bao tên tíỉnh, tên huyện, tên làng đều thay đổi...

...

Nhưng bộ áo quần rằn ri, những tâm hồn vằn vện..."

 (Chế Lan Viên - Nhà thơ)

Miền Nam Việt Nam nói xấu miền Bắc Việt Nam :

Cụ Ngô thống nhất sơn hà

Già Hồ chia cả nước nhà làm hai

...

Việt Nam dân chủ cộng hòa

Con trâu bán trước cái nhà bán sau

...

Mất mùa bởi tại thiên tai

Được mùa nhờ có thiên tài đảng lo

...

Việt cộng bảy đứa đeo cành đu đủ không gảy..."

...

Hẹn một ngày về lại cố đô

Lưỡi lê no máu của quân thù!

(Thơ Bắc tiến)

  Đấu khẩu không ai thắng ai. Hai miền căng ra đấu sức. Miền Bắc Việt Nam, Trung cộng viện trợ tất tần tật độ 20 tỷ đô la. Liên Xô viện trợ cho miền Bắc tính ra tiền cũng bằng ấy. Miền Nam Việt Nam, Mỹ cũng viện trợ bằng Liên Xô, Trung Quốc cộng lại cho miền Bắc. Chỉ còn người Việt Nam da vàng, máu đỏ giày xéo nhau, giết nhau cho đến chết!

   Miền Bắc mạnh hơn, gian hơn, độc hơn...đã thắng miền Nam. Quân đội miền Bắc thẳng tiến đến Sài Gòn bắt miền Nam đầu hàng không điều kiện. Đường tới thành phố của Hữu Thỉnh kể về việc này. Nhưng Hữu Thỉnh viết Đường tới thành phố, người đọc thấy không chính danh, không rõ lý do gì mà ta phải đi tới thành phố?

      Đường tới thành phố có 5 chường: chương I: Ngọn lửa chiến trường, chương II: Tư lệnh, chương III: Điệp khúc những cây cầu, chương IV:Tờ lịch cuối cùng, chương, V: Tự do.

     Đọc gần hết chương I - Ngọn lửa chiến trường  không biết nhóm lính hay thợ sơn tràng ở rừng đốt lửa đi đâu, về đâu. Ít nhất phải có một đề từ "Hễ còn một tên tay sai của giặc Mỹ, ta phải quét sạch nó đi". Đằng này "tuyệt vô âm tín", không ai biết "đường tới thành phố" để làm gì? Mãi đến kết thúc chương mới vỡ lẻ ra: họ  đánh về  thành phố, đồng bằng.

..."Ngày mai chúng mình tiến về thành phố

Mọi vui buồn không còn lá rừng che

Không còn cánh đồi chắn gió cho ta

Ta kéo áo khum tay mà châm thuốc

Ta sẽ loay hoay thổi nấu giữa trời

Giấu được khói thì chính ta bị lộ

Lúc leo dốc ta vẫn thèm đường nhựa

Vượt đường rồi chân lại phồng ra

Nhà đông hơn, người cũng đông hơn

Giường chiếu sẵn lại nhiều khi khó ngủ

Tiếng thạch sùng - tiểu đội bấm chân nhau

Đồng Bằng

Đồng Bằng

Ta vẫn khát khao

Ta vẫn đợi những gian nan trận cuối ..."

 Không biết họ đánh xuống đồng bắng vì lẽ gì? Lý do đánh trận cuối không nói. Đánh vì gì, không rõ. Nói chung là mù mờ, khuất tất! Hữu Thỉnh chỉ có nói họ ham thích đường nhựa (Lúc leo dốc ta vẫn thèm đường nhựa). Thành phố có 4 Đờ (Đ) mà - Điện, đường, đồng (tiền), đĩ! Ai chả thích! Cứ gì lính.

 Vậy là danh không chính. Con người khi nói dù một tiếng, một từ cũng phải  chính danh. Tốt, xấu; hơn, thua; hiền, ác; giàu, nghèo; mạnh, yếu; ta thắng, địch thua; ta tốt, địch xấu...Các ngành nghệ thuật, thơ ca cũng vậy. Một từ, một câu, một bài thơ ngắn dài đều phải chính danh:

 

 

 南國山河

李常傑

南國山河南帝居,

截然定分在天書。

如何逆虜來侵犯,

汝等行看取敗虛。

 

 Nam quốc sơn hà

Lý Thường kiệt

Nam quốc sơn hà Nam đế cư,

Tiệt nhiên định phận tại thiên thư.

Như hà nghịch lỗ lai xâm phạm,

Nhữ đẳng hành khan thủ bại hư.

Dịch thơ:

Sông núi nước Nam, vua Nam ở,

Rành rành định phận tại sách trời.

Cớ sao lũ giặc sang xâm phạm?

Chúng bay sẽ bị đánh tơi bời.

(Hoàng Xuân Hãn)

"Cái vết thương xoàng mà đưa đi viện

Hàng nhiều còn đó, máy xe reo

Nằm ngả nhớ trăng, nàm nghiêng nhớ bến

Nôn nao ngồi dậy nhớ lưng đèo!

(Phạm Tiến Duật)

..."Nước Mỹ có đất trời bát ngát

Nhưng tình người nhỏ tựa que tăm

Hận chúng nó làm nước mình nghèo xí

Hận vô cùng khi chúng đánh  ta văng!..."

 (Cao Tần)

龍城光復己寔

何物逆賊來侵犯

王師一怒威武揚

長驅直到真神速

如從天降难抵當

火龍一陣賊非美

弃城刧渡争跳生

三軍五館整队进

百姓爝躍服到迎

雲雨魃开見天日

滿城老覜俱歡顔

靡堅把履群镶語

故都還是我河山

 

LONG THÀNH QUANG PHỤC KỶ THỰC

 

Hà vật nghịch tặc lai xâm phạm

Vương sư nhất nộ uy vũ dương

Trường khu trực đáo chân thần tốc

Như tòng thiên giáng nan để đương.

Hoả long nhất trận tặc phi mỹ,

Khí thành kiếp độ tranh đào sinh

Tam quân ngũ quán chỉnh đội tiến,

Bách tính tước dược phục đáo nghênh.

Vân vũ bạt khai kiến thiên nhật,

Mãn thành lão thiếu câu hoan nhan.

Ma kiên bả lý quần tương ngữ:

Cố đô hoàn thị ngã hà san.

 

Dịch nghĩa:

 

Bọn giặc vì cớ gì mà điên cuồng đến đây?

Quân của nhà vua phẫn nộ nêu cao uy vũ.

Rồi thần tốc xông thẳng tới,

Như từ trên trời giáng xuống, không ai kháng cự nổi.

Một trận "rồng lửa" làm cho giặc tan tành,

Chúng bỏ thành cướp đò tìm cách chạy trốn.

Ba quân đội ngũ chỉnh tề tiến lên,

Trăm họ mừng rỡ đón tiếp đầy đường.

Mây quang mưa tạnh, thấy lại mặt trời,

Đầy thành trẻ già mặt tươi như hoa,

Họ chen vai thích cách tranh nói với nhau:

Cố đô vẫn thuộc núi sông của ta.

                       (Ngô Ngọc Du - Thời Tây Sơn)

 

大告 

阮廌

 

..厥有明徵。

頃因胡政之煩苛。

至使人心之怨叛。

狂明伺隙,因以毒我民;

惡黨懷奸,竟以賣我國。

焮蒼生於虐焰,

陷赤子於禍坑。

欺天罔民,詭計蓋千萬狀;..

Đại cáo bình Ngô - Nguyễn Trãi

...Quyết hữu minh trưng.

Khoảnh nhân Hồ chính chi phiền hà.

Chí sử nhân tâm chi oán bạn.

Cuồng Minh tứ khích, nhân dĩ độc ngã dân;

Ác đảng hoài gian, cánh dĩ mại ngã quốc.

Hân thương sinh ư ngược diệm,

Hãm xích tử ư hoạ khanh.

Khi thiên võng dân, quỷ kế cái thiên vạn trạng;...

Vừa rồi:

Nhân họ Hồ chính sự phiền hà

Để trong nước lòng dân oán hận

Quân cuồng Minh thừa cơ gây hoạ

Bọn gian tà còn bán nước cầu vinh

Nướng dân đen trên ngọn lửa hung tàn

Vùi con đỏ xuống dưới hầm tai vạ

Dối trời lừa dân đủ muôn ngàn kế...

 

予:

奮跡藍山,

棲身荒野。

念世讎豈可共戴,

誓逆賊難與俱生。

Dư:

Phấn tích Lam Sơn,

Thê thân hoang dã.

Niệm thế thù khởi khả cộng đới,

Thệ nghịch tặc nan dữ câu sinh....

Ta đây:

Núi Lam sơn dấy nghĩa

Chốn hoang dã nương mình

Ngẫm thù lớn há đội trời chung

Căm giặc nước thề không cùng sống...                         

Không chính danh là không quân tử. Là tà đạo!

  Cha ông chúng ta rất chính danh. Tổ tiên đã dạy: 名正言順, 言順事必成 - Danh chính thì ngôn thuận; Ngôn thuận sự tất thành!

      Mà cũng theo lời dạy của tiên tổ: 名不正言不順, 言不 順事不成 - Danh bất chính, ngôn bất thuận; ngôn bất thuận, sự bất thành!

  Đường tới thành phố gọi là trường ca, thực ra nó là một bài kể lể viết cho thật dài, kiểu viết lê thê con cà con kê thời đánh Mỹ của một nhóm văn mậu dịch "mẹ tập con đi, đảng dạy con đi, bác chỉ lối con đi" đúc kết trong mấy câu:

"Thơ như thơ các ông

Chỉ có toàn hò hét

Trang trang đều dài dòng

.Câu câu đều nhạt hoét!"

    Trước hết, cái tên ý đồ Đường tới thành  phố bê nguyên xi ý tưởng Tàu cộng "Lấy nông thôn bao vây thành thị":

泽东: 关于农村包围城市、武装夺取政权思想的提出- 中国军网

Những ý tưởng của Mao Trạch Đông về việc bao vây thành phố từ vùng nông thôn và nắm quyền lực của các lực lượng vũ trang - Mạng quân sự Trung Quốc.

...以毛泽东为主要代表的中国共产党人正因为坚持了这样一条辩证唯物主义的思想路线,善于向实践学习,向群众学习,善于总结群众斗争的新鲜经验,所以才能够在中国革命的转折关头,表现出革命的首创精神,显示出巨大的理论勇气,提出农村包围城市、武装夺取政权道路的思想,从而为复兴中国革命和争取中国革命的胜利指明了唯一正确的道路。中国军网

  "Cộng sản Trung Quốc, với Mao Trạch Đông là đại diện chính, tuân thủ đường lối tư tưởng duy vật biện chứng như vậy, giỏi học hỏi từ thực tiễn, học hỏi từ quần chúng và tổng kết kinh nghiệm mới trong các cuộc đấu tranh quần chúng, vì vậy họ có thể thực hiện bước ngoặt của cách mạng Trung Quốc. Tinh thần tiên phong của cách mạng, thể hiện sự can đảm về mặt lý thuyết, đưa ra ý tưởng về con đường lấy nông thôn bao vây các thành phố và giành lấy quyền lực, từ đó chỉ ra con đường chính xác duy nhất cho sự hồi sinh của cách mạng Trung Quốc và chiến thắng của cách mạng Trung Quốc." - Báo mạng Quân sự Trung Quốc

     Hữu Thỉnh trưởng thành từ anh làm báo liếp tiểu đội học hành thấp, chắp vá, nên thơ Hữu Thỉnh hội tụ đủ bốn chứng bệnh "Thi Y" thuộc loại nan y: sáo, dở, nhạt, nhắng" mà Biển Thước , Hoa Đà cũng đành chịu. Trường ca Đường tới thành phố càng thiện hiện rõ hơn điều này:

Sáo:                                   

...Tôi yêu gió tôi thành người đứng hát

Tôi hát rong qua thanh sắt của mình

Bài ca ấy nhiều người đã thuộc

Vẫn điệu chèo, điệu lý quê hương

Lắm khúc vui nhưng không hóa véo von

Có khúc buồn nhưng cuộc đời vốn khỏe

Tôi gọi về những tuổi những tên

Như mùa thu gọi heo may rải rác

Với thời gian tôi xin làm đá tạc

Hỡi mây trời hãy xuống hát cùng tôi...

(Chương II - Điệp khúc những cây cầu)

Hay:

... "Nước da ta thiếu máu gọi Người

Quần áo ta ẩm mốc gọi Người

Khi ta bò lên giữ một gốc sim

Ấy là khi ta nghe Người giục giã

Khi ta đốt lên đống lửa

Những bãi rễ cây lại nhắc về Người..."

....

..."Trên vai anh nóng bỏng Tự Do

Con đã từng khóc Bác ở trong rừng

Phải dựa vào cây trong đêm truy điệu

Chiếc Orionton giàn giụa nước mưa

Bài điếu văn nghe khi rành khi mất

Trong buồng lái xe tăng nhỏ hẹp

Chúng con nâng niu tấm ảnh của Người

Giấc ngủ bữa ăn hành quân đuổi giặc

Không lúc nào chúng con vắng Bác

Con đã về nơi Bác ra đi

Đường lắm dốc hôm nay con mới tới

Chúng con về như Bác vẫn từng mong

Đất nước liền một dải

Đã trở về từng hạt muối ngoài khơi

Từng đọt măng trên rừng, từng đám mây lưu lạc

Tất cả dưới bàn tay của Bác

Hóa thiêng liêng máu thịt tự hào

Chúng con thèm nghe Bác nói một câu

Giữa bến Nhà Rồng mênh mông trời nước

Thèm nghe thơ, thèm đôi tay bắt nhịp

Để vui hết những gì ta có được hôm nay

Hạnh phúc nhân dân - mơ ước tột cùng

Người cao cả tận ngọn nguồn thương nước

Sông trôi mãi nhưng bờ còn giữ được

ánh mắt Người sâu vợi suốt thời gian

Đang tỏa khắp đang ân cần căn dặn

"Hễ còn một tên xâm lược trên đất nước ta

Thì ta còn phải tiếp tục chiến đấu, quét sạch nó đi"...

(Chương V - Tự do)

Và:

..." Sống làm người chiến thắng

Cho mẹ mình, cho đời mình đỡ khổ

Còn ao ước nào hơn

Tự do và Đoàn tụ

Vào rừng lấy mật và đẵn gỗ

Thương mẹ và yêu em

Còn hạnh phúc nào hơn

Tổ quốc!..."

(Chương I - Nhừng ngọn lửa)

..." Đất vụn nát trong bữa tiệc quay cuồng của thép

Máy ủi hết ngọt ngào trên mỗi trái tim

Ủi rồi lấp

Bằng chính đất mà chúng vừa chiếm được

Trời ơi nếu kẻ thù chiếm được

Chỉ một gốc sim thôi dù chỉ gốc sim cằn

Tổ quốc sẽ ra sao? Tổ quốc?

Thơ ơi thơ hãy ghì lấy gốc sim

Anh đang bò về phía gốc sim..."

(Chương I - Ngọn lửa chiến trường)

Và:

..." Tôi thấy rõ nhân dân xanh lẫn vào cây chàm cây đước

Nhân dân tự do

Triệu bàn tay dằng dịt ôm bờ

Ghì lấy từng con tôm con tép

Ghì lấy dấu chân ai khỏa thượng nguồn

Cũng tìm về cuối đất

Nhịp triều thịnh vượng mũi Cà Mau

Nhân dân chia mình ra các đảo

Làm vệ tinh

Yên dạ những con tàu

Nhân dân có tên là Bình, là Nghĩa, là Tỏ, là Thu

Là xạ thủ trung liên

Là báo vụ viên

Là Phấn khí tài, là quỳnh quản lý

Đã tới đảo bằng mũi tàu truy quét

Dựng lên đảo pháo đài mắt thức

Yêu đảo bằng cánh tay dài rộng đất liền

Tôi đang đi trên đảo chẳng bình yên

Nghe rõ lắm lời tuyên ngôn của cát

Ném tơi bời trên da thịt nóng rang

Biển lại hát bài hát cũ

Biển luôn luôn muốn chứng tỏ mình

Khao khát

Sóng nồng nã không có gì ngăn được

Sóng mênh mông thử sức con người...

(Chương V - Tự do)

Tiếp:

 

....."Chỉ còn lại nhân dân vằng vặc dưới sao trời

Nhân dân trở về qua tay người móc nối

Qua lời ru gửi gắm xa xôi

Anh không quên mang trăng vào nhà

Trăng buồn trăng phải sáng qua vườn người

Nhân dân bao dung tin vào nhân nghĩa

Gọi về dăm ba tên tuổi lạc loài

Ôi nhân dân! Tấm lá chắn diệu kỳ

Người nhận mọi vết xăm cho căn hầm nguyên vẹn

Người thâm trầm như đêm

Người tinh nhạy như đêm

Người kéo co giành giật lại đôi kèo..."

(Chương III - Điệp khúc những cây cầu)

Dở:

..."Những người mới đến

Không biết bằng cách nào lửa đã nhóm lên

Như không phải củi rừng đang cháy

Có gì đó trong đốm tàn hoa cải

Cứ bay lên làm nhẹ cả người ngồi

Lửa vun cao vách đất bóng người

Đang ấm lại bao nỗi niềm để ngỏ

Tiếng suối đổ, hãy nghe suối đổ

Chảy cồn cào ngang dọc mỗi tâm tư

Chào ngọn lửa

Xòe bàn tay lạnh cóng

Chúng tôi hơ

Chúng tôi sưởi một chặng đường tất bật

Ngày mai lại nhớ về nơi này

Lại nhớ nhau

Người còn người mất

Lại nhớ mình

Có lúc

Ngồi thảnh thơi như chẳng bận điều gì

Lửa ném tàn xua muỗi bay đi..."

(Chương I - Ngọn lửa chiến trường)

 Hơn 3 trang độ 150 câu nói những cáu chung chung vô bổ , không rõ ràng minh bạch gì cả. Đường tới thanh phố có vô số những đoạn dở hơi như thế này!

Tuy cũng là dòng tụng ca, cổ động, nhưng Phạm Tiến Duật hoành tráng hơn, có nhân dân, có lịch sử:

"Những sư đoàn đi dài

Một phần dân mình đó

Cũng một phần đời ta

Cũng một phần lích sử"...

Trích trường ca Những vùng rừng không dân" của Phạm Tiến Duật

  Hữu Thihr sinh viết lục bát mà lục bát quá kém, ít cạn, lới nhạt, đơn điệu, sơ sài từ khi nhập vào làng văn chương cho đến đầu bạc răng long::

      số những câu lục bát sơ sài, luôn lỗi vận:

... Mùi mồ hôi, mùi rễ cây

Mặn nồng sẽ kể với người đến sau...

Nên sửa:

(Mùi mồ hôi, mùi rễ cây

Mặn nồng kể với con cầy đến sau)

... Bắt đầu từ một cánh tem

Sao mai chốt đỉnh trăng đêm mại dần

Muỗi bay tối một góc rừng

Lần theo muỗi gặp chùm sung, gặp người..."

...Con đường qua tháng, qua năm

Núi đau lở đá, rừng bầm tận cây

Vai gùi bước xốp trong mây

Ta đi làm những mặt trời của nhau..."

..."Đêm qua bên ấy ru Kiều

Làm ta căm mãi cái mưu Tú Bà"

Đêm qua bên ấy ru Kiều

Bên này ta đã thiu thiu ngũ rồi..."

 (Nhà đồi - 1962)

...Ai qua Lệ Thủy, Xuân Bồ

Nhà ta binh trạm cải gù, gà choai..."

(Âm vang chiến hào 1975 - In chung với Lâm Huy Nhuận)

..." - Mình đang làm sử chiến tranh

Có cần nghe một mối tình dở dang?"

Nên sửa:

(Mình đang làm sử chiến chinh

Có cần nghe một mối tình dở dang)

"Chúng em chẳng sợ địch lùng

Đêm nằm sợ tiếng ru con trên đài"

Nên sửa:

Chúng em chẳng sợ địch còn

Đêm nằm sợ tiếng ru con trên đài)

(Chương II - Tư lệnh - Đường tới thành phố - Giải thưởng Nhà nước)

...Ra sông lấy sóng mà yêu

Lên nuí thì cứ lấy đèo mà tin..."

Nên sửa:

(Ra sông lấy sóng mà yêu

Lên non cứ vị cây điều mà tin)

(Trường ca Biển - Giải thưởng Hồ Chí Minh - 2015)

Nhạt:

Nhạt cũng thuộc tứ chứng Thi Y - vô phương  cứu chữa. Hữu Thỉnh bị căn bệnh này quá trầm kha!

...:"Và anh

Ý nghĩ lăn qua viên đạn cuối cùng

Giặc đổ quân sau rừng

Ủi và đốt

Cây thở dài trên đất

Tàn bay tung

"Cán gáo" thõng đôi càng

Man rợ xoáy

Đóng đinh vào chân tóc

Bới rừng lên

Thả xuống lời ngon ngọt

- "Hỡi cán binh cộng sản, hãy ra hàng

Tổng thống sẽ

Tổng thống sẽ

Tổng thống sẽ..."

Thơm tho và ngọt xớt

Đảo nửa vòng lại ngọt xớt thơm tho

Rừng quay mặt nghe gió bò trên đá

Bò trên rêu

Ẩm ướt

Trên lưng..."

(Chương II - Tư lệnh)

Hoặc:

..."Ta sẽ uống cho nguôi trăm cơn khát

Từ đôi tay em gái bổ dừa

Sẽ gặp má ta sẽ làm nũng má

Ra vườn hái ổi hát ngu ngơ

Em ơi em, anh không sao viết kịp một dòng thư

Thương nhớ là gì mà anh mang nặng thế

Buồng lái xe tăng nóng bức thế này

Em chẳng đến được đâu, mở cửa lên vẫn nóng

Mở cửa lên là vòm trời cao rộng

Em ở đâu trong thương nhớ của anh

Em ở đâu đất trời không bờ bến

Cổ ta khô sao nắng quá vô tình

Trong cáp nghe trăm tín hiệu vọng về

Anh nghe rõ những vì sao tít tắp..."

(Chương III - Điệp khúc những cây cầu)

Nhắng :

Kiểu vòng vo tam quốc, lộn xui,lộn đụn, nhắng nhít:

..."

Anh đã qua những ngày tưởng chừng không qua nổi

Nụ cười bán tín bán nghi

Giỗ tết tường trình liên gia kết phái

Chúng chồng tiền một cái đầu đảng viên

Chúng chuốc rượu cho một thằng phản bội

Chúng phục kích ngoài mí vườn

Chúng rình rập sau một đôi kiếng mát

Thằng Đại Việt, lũ hội đồng

Cắt máu ăn thề trên lá cờ ba sọc

"Với cộng sản thì phải bừa tận gốc"

Những tên lính xăm hầm

Mài thuốn xuống sân xi-măng nhà xã trưởng

Nhạc dạo đầu cho một ngày "bình định"

Chó nghe chó chạy cuồng

Gà nghe gà bỏ ổ

Cây nghe cây thui từng chiếc rễ

Người nghe nắn túi sờ căn cước

Những đồng tiền nghe bật khỏi tủ khỏi rương

Chéo đội hình cánh sẻ

Chúng bắt đầu "phụng sự quốc gia"

Chúa được hôn bằng hơi rượu say mềm

"Xin Chúa ban cho chúng tôi hàng ngày dùng đủ và tha nợ chúng tôi"

Câu kinh rơi giữa hai hàng dân vệ..."

(Chương III - Điệp khúc những cây cầu)

Nối:

..." Hôm nay và hôm qua

ở đây và nơi khác

Chẳng sợ nhàm

Mặt trời cháy với một niềm mong mỏi

Mỗi hạt cát hành tinh cũng phát sáng như mình

Em ơi em, em là biển của đời anh

Là vụng kín

Là bến bờ nương tựa

Em làm anh bận rộn ngày ngày

Em làm anh nóng nực ngày ngày

Anh chìa ca nhận phần nước hiếm hoi

Để em thấm vào anh khúc ngọt ngào chia sẻ

Em làm anh tơ non

Em làm anh mạnh mẽ

Cứ vẫy vũng như đảo của ta

Biển nguội dần vỗ tím vào đêm

Những cánh chim

Khép chiếc ô râm mát

Những chiếc ô biến thành lời ru

Nựng nhau quanh nhà bạt

Đó là lúc đảo cất lên tiếng hát

Những bàn chân sánh ướt lân tinh

Đảo độc thoại dưới trời sao rộng rãi

Sóng mang đi âu yếu đất liền

Và anh

Anh biến thành một tấm áo choàng

Che đồng đội những cơn mưa xích đạo.!

   Ngoài ra Đường tới thành phố còn bị hàng trăm căn bệnh khác sến, sơ sài, ôm đồm, dài dòng văn tự, sính nói triết lý, chữ nghĩa lòng thòng, ba voi không ngọt bát xáo, hát ca dở hơi tùy hứng...

-        Biển lại hát ca bài hát cũ

-        Tôi yêu gió tôi thành người đứng hát

-        Tôi hát rong qua thanh sắt của mình

-        Cây đàn ấy hát bằng màu áo

-        Tôi đã nghe bài hát xốn xang lòng

Các cô gái làm đường đi đào củ chụp

-        Hát về rừng đừng bắt chước tiếng chim

-        Nựng nhau quanh nhà bạt

Đó là lúc đảo cất lên tiếng hát

-        Em vừa đào vừa hát Sài Gòn ơi!

-        Sài Gòn ơi, ta đã về đây

Nghe người hát mà thương người quá thể

-        Hỡi mây trời hãy xuống hát cùng tôi....

Cười:

-        Ta nói cười cuối biển cũng nghe ta

   Những câu triết lý nửa mùa:

-        "Những cánh đồng in dấu chân của mẹ

     Cứ ngày ngày ra khẩu lệnh cho tôi.

-        Lửa vì thế đã chín thành than đỏ

-        Tôi là chỗ thất thường của gió

Khi người yêu cởi áo trao khăn

-        Tôi là chỗ bước chân đi chậm lại

Người thương nhau dù thương chỉ một lần

-        Tôi là chỗ những ngang tàng chịu khuất

Nơi con người thuần hóa các dòng sông

-        Tôi là kẻ thù của những gì chia cắt

Hữu Thihr hay cóp và phỏng theo ý tứ của người khác nhưng không thành công.

Nguyễn Bình viết:

"Hồn trinh chôn chặt chân gường

Em còn cho chị lược gương làm gì?"

Hữu Thỉnh:

"Chị chôn tuổi xuân trong má lúm đồng tiền", sao lại "chôn tổi xuân trong má lúm đồng tiền"?

 Ca dao nói : "Má lùm đồng tiền vạn rưỡi cũng mua".  Đưa tuổi xuân vào má lúm đồng tiền làm cho má lúm đồng tiền thêm đẹp có gì hy sinh, cực hình khao khát đâu?

  Giải phóng miền Nam, miền Bắc Việt Nam đã tung hết nhân tài vật lực cho cuộc chiến, "thóc không thiếu một cân, quân không  thiếu một người", ba bốn quân đoàn,  hàng trăm tướng lĩnh có tài thao lược, được học hành đào tạo nước ngoài (Trung Quốc, Liên Xô cũ như Lê Trọng Tấn - Giu cốp của Việt Nam, Lê Đức Anh - Cu zu tốp chột Việt Nam, Nguyễn Nam Khánh - Lâm Bưu Tàu, Nam Long - Xích vệ Đỏ...) và  hàng vạn dân vùng tạm bị chiếm nhất tề xông lên giành thắng lợi. Có đâu trong Đường tới thành phố hiu hắt mấy anh vệ túm, vệ dân (dân vệ), tư lệnh Trường Sơn trong vườn trầu..., kẻ rúc hầm, đứa xoi hầm quần qua quần lại gốc sim trông rất cà lơ, cò lả, xơ xác không ra một phong cách trượng phu, hảo hán! Bởi thế trong trường ca này không tìm  ra một hình ảnh anh hùng, một hình ảnh mỹ nhân tài mạo song toàn để đời, toàn là nhàn nhạt ngàn xa buồn cô liêu!

  Hữu Thỉnh viết Đường tới thành phố năm 1977 - 1978 tại Đà Lạt gậm nhấm "chiến thắng" , "vinh quang" trong khi cả dân tộc tạ tàn trong tao loạn, nạn thuyền nhân chấn động địa cầu. Gần 1 triệu người bị nhấn chìm trong biển cả làm mồi cho cá dữ!

"Năm Mậu Ngọ mất khoai

Năm Kỷ Mùi sạch lúa

Vạn nhà cứ đói hoài

Vạn người mồi cá dữ"

  (Đỗ Hoàng).

    Trời đất làm sao trang viết hay được, có thần  bút được!

     Nói chung Đường tới thành phố là một trường ca kém toàn diện, tác giả trình độ yếu,  kiến văn thấp, học vấn chắp vá, tay nghề làng nhàng, một ý tưởng nói theo và làm theo lệnh cấp trên nên không có giá trị gì về nội dung, nghệ thuật. Hữu Thỉnh không có tài thơ!  Đúng như giám khảo Xuân Diệu lúc đầu nhận xét: "Đường tới thành phố là trường ca tào lao chi khươn"!

                                Hà Nội 8 - 2020

                                         Đ - H

 

                                                                                                          

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét