Đỗ
Hoàng
TRẢ
VIỆN PHÍ QUÂN Y CHO MẸ
Thể loại : Trường ca
Khởi viết 15 – 8 – 2017 ( (24 tháng 6 nhuận
Đinh Dậu)
LỜI
DẪN
“Buồn
đau kêu xé lên trời
Ai
mần chi được mặt người trần gian”
MỞ
ĐẦU
Mẹ
mất
Đã
mười năm
Đất
trống thêm nhiều khoảng trống
Cây
rau muống cũng không thể xanh hơn
Cây
rau dền cũng không thể xanh hơn!
Những
đám mây tang mùa đi thật não nề.
Hôm
đưa mẹ lên cồn mả tha ma, họ hàng cả nhà đều khóc.
Con
từ trại viết văn của Hội Nhà văn Việt Nam mở ở Sơn La đi xe tăng bo về nhà đến
lạy bên quan tài của Mẹ, không một giọt nước mắt nhưng lòng đau như cắt.
Mẹ
biết không
Mấy
hôm sau khi mở cửa mả con ngồi một mình trong nhà ở quê, nước mắt dầm dề, không
thể nào nói hết nỗi buồn khi Mẹ qua!
Đời
Mẹ 90 tuổi là dài nhưng cũng là bóng câu qua cửa sổ.
Mẹ
vô cùng cực khổ
Con
có viết đôi bài thơ về Mẹ , con là người sống thừa ra để Mẹ hiền luôn luôn gánh
nặng!
Với
con
Mẹ
là người cực khổ, đau đớn nhất hành tinh này!
Mẹ
chỉ có môt tuổi thơ trong sáng, viên mãn và đẹp khi ông ngoại còn sống.
Ông
ngoại có 5 người con trai
Chỉ
mẹ con út là gái
Ông
ngoại cưng chiều hết mức
Đi
đâu cũng cho đi theo
Ông
ngoại gọi Mẹ là cái đuôi
Lên
chín mười tuổi ông ngoại bồng chân gần quẹt đất thế mà đi đâu ông ngoại cũng bế!
Con
không có con gái
Nên
hiểu tình thương vô bờ ấy của ông ngoại !
Thế
mà khi thành gia thất
Cuộc
đời của Mẹ bể dâu hơn cuộc đời chị Dậu vạn lần! (1)
Con
vẫn biết
Các
Mẹ trên trái đất này
cũng
vô cùng cực khổ
Không
chỉ đất Việt ta mà cả vũ trụ
Nơi
nào có sinh linh!
Đói
nghèo
Chinh
chiến liên miên
Phụ
nữ trẻ, thơ nạn nhân muôn kiếp!
*
CHƯƠNG
MỘT
LÀNG
PHƯỜNG
1
Làng
tôi tên là làng Thuận Trạch tên Nôm là làng Phường, xã Mỹ Thủy
Thuộc
tổng Cao Vân.
Nay
là xã Mỹ thủy, huyện Lệ Thủy, tỉnh Quảng Bình.
Làng
tôi vừa làm nông, vừa buôn bán.
Sau
Cách mạng thành xã Cao Vân.
Xã
bao gồm 4 xã Tân Thủy, Dương Thủy, Thái Thủy, Mỹ Thủy bây giờ.
Thuộc
huyện Lệ Thủy tên có từ thời tỉnh Quảng Bình nằm trong Bộ Việt Thường thuở nhà
Trần, cách đây cũng đã 700 năm (2).
Làng
Phường nằm bên bờ sông Kiến Giang, xưa gọi là sông Bình Giang, Kiến Giang là một
nhánh của sông Nhật Lệ nổi tiếng xứ Ô Châu xuất phát từ trên đại ngàn Trường
Sơn chảy xuống!
Sông
Kiến Giang buốn mùa xanh trong , điển hình cho các dòng sông trung Trung Bộ, Việt
Nam.
Làng
Phường, phía Tây sừng sững núi Trường Sơn như cái răng cưa khổng lồ lởm chớm
nũi cao,
Phía
Đông là những núi đồi cát trắng chạy dài dọc bờ biển cảnh như sa mạc Sahara bên
châu Phi.
Phía
Bắc có cánh đồng mênh mông, có xã Xuân Bồ nổi tiếng trong thời kháng chiến chống
Pháp, lừng danh anh hùng Lâm Úy giết quan một Pháp, chết đuối dưới sông khi vớt
lên miệng anh hùng còn cắn chặt cổ họng tên giặc.
Phía
Nam là núi đồi bát úp cao cao như núi Ngự Bình của Huế che chở cho Làng.
Những
buổi chiều mùa hè, mặt trời soi bóng nước lung linh huyền ảo như trong phim thần
thoại Trung Quốc hay chiếu sau hòa bình lập lại năm 1954 ở Làng!
Lệ
Thủy cùng với huyện Quảng Ninh tên cũ là Khang Lộc; đó là hai huyện giàu có có
tiếng từ thời nhà Trần vào lập đất khai khẩn
“Nhất
Đồng Nai, nhì Hai huyện”
Câu
thành ngữ đã truyền tụng nhiều đời như thế.
Còn
huyện nhà, mọi người tự hào nói:
“Lệ
Thủy gạo trắng nước trong
Ai
về Lệ Thủy thong dong con người”
2
Làng
Phường
Thuở
giao thông chưa phát triển là con đường thủy độc đạo đi ra Bắc.
Thuyền
từ trên núi Trường Sơn chở lâm thổ sản theo sông Kiến Giang về sông Nhật Lệ đi
ra biển có thể đến muôn nới trên trái đất này.
Nhà
Nguyễn khi hành phương Nam có ý định đô ở làng Phường.
Thầy
địa lý Duy Thanh cón trai của nhà bác học, ông quan Lê Quý Đôn thời chúa Trịnh
đã sai người đến đo đạc, xem thế núi, thế đất tính kê lâu dài cho vua chúa.
Nhưng
Làng Phường gần phía Bắc chúa Trịnh nên sau đó Nhà Nguyễn chọn Huế cũng đẹp như
Làng Phường làm Kinh đô.
Chỉ
còn kỷ niệm tự hào duy nhất là Chùa Hoàng Phúc xây từ thời nhà Trần mở cõi.
Tục
gọi là Chùa Quan, Chùa Trạm.
Tôi
từ bé thơ đã nghe mệ ngoại, mẹ tôi ngâm nga:
“Tận
trời chuông Trạm kêu vang
Ai
mà thờ Phật, bạc vàng trời cho”
Một
tiếng nói tự hào của Làng.
Câu
này tôi được nghe thêm mệ Nga, mẹ của chị Thừa chạy vào Nam năm 1954 lưu lạc ở
Đà Nẵng đọc khi gặp tôi vào Đà Nẵng năm 1976 sau giải phóng miền Nam năm 1975.
Mệ
Ngà có chồng bị Việt Minh giết nên đã theo chồng một lính Pháp chạy vào Nam.
Chị
Thừa là con của Mệ khi gặp tôi, biết tôi
chưa vợ đã nhất quyết gã con gái đầu cho tôi.
*
CHÙA
QUAN
1
Chùa
Quan, chùa Trạm chính là chùa Hoằng Phúc
Theo
từ điển Wikipedia (Bách khoa toàn thư mở) Chùa Hoằng
Phúc (còn có tên là chùa Kính Thiên, chùa
Quan) là một ngôi chùa ở thôn Thuận Trạch, xã Mỹ Thủy, huyện Lệ Thủy, tỉnh Quảng Bình.
Đến thời điểm năm 2018, chùa đã có lịch sử 718 năm, là một trong những ngôi
chùa cổ nhất miền Trung Việt Nam.
Chùa Hoằng Phúc là một di tích Quốc gia và đã
trải qua các tên gọi khác nhau, khởi nguồn là am Trí Kiến, tiếp đến là chùa
Kính Thiên và sau là chùa Hoắng Phúc.
Dân
làng Trạm tự hào về chủa Hoằng húc lắm.
Không
chỉ dân làng Trạm
Dân
Lệ Thủy
Dân
Quảng Bình
Dân
cả miền Trung …
Cũng
tự hào về chùa Hoằng Phúc lắm lắm!
Bà
con, quan chức đều tôn vình cổ tự Hoắng Phúc là “Vô song phúc địa – Đất đai
phúc đức có một không hai”
Phật
giáo đã vào sớm vùng đất Quảng Bình.
Phật
giáo truyền vào nước ta từ đầu Công nguyên và kể từ đó nó gắn liền với lịch sử
của dân tộc và vào Quảng Bình cũng đã bảy tám trăm năm từ thuở Quảng Bình còn
trong bộ Việt Thường.
Nó
là một tôn giáo bám rễ sâu đậm trong tâm linh người Việt Nam.
Bởi
Phật giáo là một đạo giáo có tôn chỉ, mục đích xây dựng một cuộc đời thuần mỹ,
chí thiện, bình đẳng, yên vui, cứu khổ, cứu nạn…
Vùng
đất Quảng Bình quê tôi cũng có bề dày lịch sử, văn hóa lâu đời.
Ngay
từ thời đồ đá thuộc giai đoạn Văn hóa Hòa Bình cách đây đã gần một vạn năm.
Đây
cũng là nơi giao hội giữa nhiều nền văn hóa lớn của đất nước, dân tộc, chủ yếu là nền Văn hóa Đông Sơn và Sa Huỳnh
Được
phát triển liên tục, hệ thống đến hôm nay.
Từ
thuở Vua Hùng dựng nước
Vùng
đất Quảng Bình đã hiện diện trong cơ cấu hành chính Nhà nước Văn Lang, thuộc Bộ
Việt Thường
Từ
thuở ấu trò tôi đã nghe tên “Bộ Việt Thường”.
Quảng
Bình cũng là vùng đất chứa đựng nhiều giá trị lịch sử, văn hóa, vật chất và
tinh thần rất độc đáo của dân tộc.
Một
trong những giá trị văn hóa đã đồng hành cũng lịch sử Quảng Bình là Văn hóa Phật
giáo!
Quảng
Bình quê tôi nằm ở bị trí biên viễn
Thời
cổ đại, trung đại là nơi vừa tranh chấp, nơi giao lưu của các tập đoàn, các
lãnh chúa khi chiến, khi hòa.
Quảng
Bình đã tiếp nhận sự lan tỏa Phật giáo trong một chuỗi dài lịch sử với nhiều
thăng trầm!
Phật
giáo trên địa bàn Quảng Bình có cơ hội phát triển khi mảnh đất Quảng Bình thuộc
về quốc gia Đại Việt
Đặc
biết thời kỳ Đại Việt lấy Phật giáo làm Quốc giáo.
Thời
kỳ nhà Lý (1010 – 1225)
Thời
kỳ nhà Trần (1225 – 1400)
Theo
tiến trình lịch sử, năm 1069, sau hành trình mở cõi về phương Nam của Lý Thường
Kiệt thời Lý Thánh Tông đã thu hồi 3 châu Bố Chính, Địa Lý, Ma Linh sát nhập
vào Đại Việt.
Ba
châu trên thuộc vùng đất Quảng Bình ngày nay và một phần của Quảng Trị.
Thực
hiện chính sách di dân lập ấp vào những vùng đất mới của các triều Lý – Trần,
những lớp người Việt từ Bắc đến định cư
trên vùng đất này đã mang cả truyền thống văn hóa, tín ngưỡng của mình đến ươm
mầm , gieo hạt trên vùng đất mới.
Chỗ
dựa tinh thần thân thiết nhất của họ chính là Phật giáo.
Người
Việt đi đến đâu lập làng, đào giếng lấy nước uống, trồng cây đa đầu làng, xây
đình làng, chùa làng để thờ Phật.
Đúng
như câu ca dao đã nói:
“
Đất vua, chùa làng, phong cảnh Bụt”.
Và
từ đó tiếng Việt cũng phong phú thêm:
Chùa,
chuông, mõ, bụt, ông sư, bà vãi, thiếu lĩnh, tài khê, miệng nam mô, bụng bồ dao găm …
Từ
thời Lý đến trời Trần, xứ Tân Bình, Thuận (Quảng Bình, Quảng Trị, Thừa Thiên)
có rất nhiều chùa, chiền.
Chùa
Phật được dựng trên miền đất mới là hình ảnh nhắc nhở về quê hương, nguồn cội
Cũng
là nhân tố có tính tương đồnggiúp cho người xa xứ lập làng nhanh chóng hòa nhập,
kết nối với văn hóa, tín ngưỡng của người bản xứ.
Chùa
đa phân xây dựng là chú Đất, Phật Vàng.
Chùa
xây bằng gồ, lợp tranh, thấp bé, xung quanh đắp phên trộn rơm với bunhf đất.
Chùa
Trạm cũng như vậy.
Từ
Tân Bình, Thuận Hóa, Phật giáo tiếp tục thiên di trong cồn cuộc mở cõi của các
triều đại vào phương Nam.
Đặc
biết vào thơi Lý, Trần
Thời
kỳ oanh liệt, vẻ vang của dân tộc
Thời
kỳ Phật giáo trở thành Quốc giáo
Tinh
thần nhập thế được thể hiện rất sinh động và rõ nét qua các nhân vật Phật giáo
tiêu biểu:
Thời
Lý:
Vạn
Hạnh Lý Thái Tổ, Lý Thánh Tông, Lý Thường Kiệt…
Thời
Trần:
Trần
Thái Tông, Trần Nhân Tông…
Những
nhân vật trên không chỉ dùng Phật giáo để nhập thế phò vua, giúp nước, cứu người
mà còn xây dựng khối đoàn kết dân tộc.
Lê
Mạnh Thát trong toàn tập Trần Nhân Tông viết:
“Hai
triều đại thời kỳ này đã xây dựng Phật giáo Đại Việt hưng thịnh
Góp
công lớn xây dựng dân tộc Đại Việt hùng cường.
Phật
giáo trong giai đoạn này đã trở thành một nhân tố để thống nhất dân tôc
/khi
vua Lý Thái tổ lên ngôi thì sự nghiệp thống nhất dân tộc bằng vsawn hóa được đẩy
mạnh hơn bao giờ hết.
Phật
giáo đã trở thành chính sách cơ bản xây dựng khối đại đoàn kết dân tộc”
Dưới thời Trần, Phật giáo có những bước phát
triển mới
Phật
giáo hình thành những trường pphais riêng ở Đại Việt
Với
những giáo lý thực tế trên nền tảng căn bản của tôn giáo “ từ bi, bác ái và vị
tha”.
Phật
giáo càng được truyền bá sâu rộng.
Đặc
biệt là sự xuất gia của vua Trần Nhân Tông vào năm 1299.
Trần
Nhân Tông là một ông vua yêu nước
Trần
Nhân Tông là vị anh hùng dân tộc Trần Nhân Tông ddax lãnh đạo đất nước tiến
hành hai cuôc khấng chiến chống Nguyên Mông năm 1285, 1288 thắng lợi
Chiến
thắng oai hùng đã nâng vị thế Đại Việt lên tầm cao mới vtrong khu vực
Góp
phần giải phóng các nước Đông Nam Á thoát khỏi
ách xâm lược của đế quốc Nguyên Mông thế kỷ thứ XIII!
Trần
Nhân Tông là vị vua Phật tử thuần thành.
Khi
còn làm Thái tử và sau khi lên ngôi ông được được học trực tiếp với Tuệ Trung
Thượng Sĩ.
Năm
1299, ông xuất gia lên núi Yên Tử
Pháp
hiệu Trúc Lâm Cư Sĩ
Tự
xưng là Hưng Vân Đại Đầu Đà
Đời
sau tôn danh : Trúc Lâm Điều Ngự. (hay Điều Ngự Giác Hoàng)
Trần
Nhân Tôn là vị Thiến sư đắc đạo.
Ông
có nhiều triết lý sâu sắc, khéo kết hợp chữ Tâm, Đức, Trí của Đạo làm nền tảng
xây đời
Ông
đã lập ra Thiền phái Trúc Lâm
Và
trở thành vị tổ thứ nhất của Thiền phái
lớn nhất thời Trần.
Đây
là hệ thống Thiền phái đặc trưng đầu tiên của Đại Việt với chủ trương cư trần lạc
đạo
Vẫn
sống trong đời sống bình thường nhưng vẫn vui với Đạo!
Dòng
Thiền này làm cơ sở vững chắc cho Phật giáo Đại Việt.
Sau
khi thành Đạo
Trần
Nhân Tông đi khắp đất nước thuyết pháp truyền giáo lý Phật giáo
Với
mục đích dùng Trúc Lâm thống nhất ý thức hệ toàn dân tộc đã được thử thách
trong diễn trình lịch sử và đặc biệt trong cuộc chiến ác liệt Nguyên Mông.
Tràn Nhân Tông đã vân du thuyết Phật trong nhiều
Trung tâm Phật giáo của nước ta thời bấy giờ: chùa Phổ Minh, Sùng Nghiêm, Báo
Ân, Nghiêm… và vào tận phủ Lâm Bình (Quảng Bình) thuộc vùng biên địa cực Nam của
Đại Việt
Thánh
Đăng Ngữ Lục viết:
“
Tháng 10 năm Kỷ Hợi, niên hiệu Hưng Long thứ 7 (1299) Phật Hoàng Trần Nhân Tông đi thẳng lên núi
Yên Tử chuyên cầu tu tập mười hai hạnh đầu đà”.
Lấy
hiệu Hưng Vân Đầu Đà, lập tịnh xá Trượng Đề, khai pháp độ tăng, học chúng đến rất
đông.
Sau
đó chiêu tập danh tăng chùa Phổ Minh, phủ Thiên Trường mở hội giảng thuyết kinh
điền
Năm 1301, Phật Hoàng Trần Nhân
Tông vân du bên ngoài đến trại Bố Chính, chọn am Tri Kiến ở phường Thuận
Trạch, huyện Lê Thủy (Quảng Bình ngày nay) để ở.
Phật Hoàng đã ghé thăm và cầu phúc đức
cho dân, lúc đó Hoằng Phúc có tên là am Trí Kiến.
Theo Đại Việt sử ký toàn thư:
Hơn một năm sau khi xuất gia, thang3 năm
Tân sửu, niên hiệu Hưng Long thứ 9 (1301), Thượng Hoàng Trần Nhân Tông đi chơi
các đại danh xa xôi, sang cà Chiêm Thành để thuyết Pháp Phật giáo.
Trong chuyến vân du này nhờ tài ngoại
giao khéo léo mà Trần Nhân Tông tạo được mối bang giao hòa bình giữa hai nước
Đại Việt và Chiêm Thành, đồng thời mở rộng lãnh thổ về phương Nam đến đào Hải
Vân.
Trong chuyến vân du này, Trần Nhân Tông
đã thuyết pháp, truyền giảng giáo lý Trúc Lâm với các tín đồ Phật tử Quảng
Bình.
Phật giáo Quảng Bính thời ấy đã có một
dòng phái Trúc Lâm
Hoặc ít nhất ảnh hưởng tư tưởng giáo lý
của Thiền phái Trúc Lâm.
Sách Ô châu cận lục của Dương Văn An
viết năm Ất Mão, niên hiệu Cảnh Lịc, đời Mạc Phúc Nguyên (1555) có kể rất nhiều
chùa nhưng đa số là ở Tân Bình (Quảng Bình)
Tất cả đều gọ là chùa xưa, chùa cổ và
dùng chữ Thiền Lâm
Đạo Phật ở đây vào thời Trân khá hưng
thịnh, nhiều chùa thuộc về Thiền Tông.
Tân Bình có nhiều chùa công.
Nhà nước phong kiến đặt moogj chức quan
coi giữ chùa là “Tự chính”.
Thời ấy phủ Bố Chính và phủ Tân Bình có
các chùa sau:
Chùa Cảnh Phúc ở Cảnh Dương
Chùa Bồ Khê ở xã Thanh Trạch, huyện Bố
Trạch lập năm Hống Đức thứ 3 (1473)
Chùa Hóa ở huyện Khang Lộc (huyện Quảng
Ninh ngày nay)
Chùa Kính Thiên (Hoằng Phúc), chùa Đại
Phúc ở huyện Lệ Thủy.
Đến thời chúa Tiên Nguyễn Hoàng và các
chúa Nguyễn đã mở rộng chấn hưng Phật giáo
Xây dựng và phục dựng nhiều chùa trên
lãnh thổ của mình.
Năm 1716,
chúa Nguyễn Phúc Chu đặt tên chùa là Kính Thiên Tự. Năm 1821,
vua Minh Mạng trong chuyến ngự giá Bắc tuần, ghé thăm chùa và cho đổi
tên là Hoằng Phúc Tự, tục danh chùa Trạm hay chùa Quan. Theo dòng chảy thời
gian, chùa Hoằng Phúc mang nhiều dáu ấn gắn liền những biến cố thăng trầm trong
suốt chiều dài lịch sử dân tộc và được Nhà nước phong kiến hết sức quan tâm
trong việc trùng tu, sửa chửa và phục dựng.
Lịch sử hình thành chùa cổ Hoắng Phúc
(Bổ sung)
Lịch sử hình thành
Chùa
Hoằng Phúc thuộc thôn Thuận Trạch, xã Mỹ Thủy, huyện Lệ Thủy, tỉnh Quảng Bình
Vị
trí địa lý
Vỹ
độ Bắc : 17 o 12’ 77’’
Kinh
độ Đông : 106 o 48’ 43’’
Tọa
lạc trên một vùng đất cao ráo rộng 10 000 m2
Ở
phía hữu ngạn sông Bính Giang (nay là sông Kiến Giang)
Một
nhánh của sông Nhật Lệ
Cách
trung tâm huyện Lệ Thủy 4 km về phía Nam.
Khởi
nguôn là am Tri Kiến xây dựng cách đây 718 năm
Sau
đổi tên là chùa Kính Thiên
Sau
là chùa Hoằng Phúc
Cổ
tự còn có tên gọi dân gian thân thiết
Chùa
Quan
Chùa
Trạm.
Về
định danh và vị trí địa lý am Tri Kiến
Thời
Trần châu Lâm Bình có từ đời Lý đổi thành phủ Lâm Bình rồi phủ Tân Bình
Cuối
đời Trân đổi thành trấn Tân Bình
Trấn
Tân Bình có huyện Phúc Khang (có lúc là Thượng Phúc, Khang Lộc…), huyện Nha
Nghi và huyện Tri Kiến.
Năm
Vĩnh Lạc thứ 13 (1415) tháng 8 chia đất huyện Tri Kiến nhập vào hai huyện Nha
Nghi và Phúc Khang.
Huyện
Nha Nghi tương đương huyện Lệ Thủy
Huyện
Phúc Khang tương đương với huyện Quảng Ninh ngày nay.
Tôi
đọc Ô châu cận lục có nghe nhắc địa danh Tri Kiến
Tri
Kiến cổ chi huyện Kiến, Tả Bình kim tức phủ Bình (Tri Kiến xưa nơi đặt huyện, Tả
Bình này tức phủ Bình.
Ở
phần Phong tục tổng luận, trang 47, Dương Văn An có viết:
Tri
Kiến thì nhiều gái góa chồng.
Do
Tri Kiến thuộc huyện Phong Lộc nên Tri Kiến cũng có tên thôn (phường, trang…
Trong
mục Đồ bản trang 31 có tên là An Trạch xã thuộc huyện Lệ Thủy.
Tri
Kiến vừa là tên thôn, vừa là tên của huyện Tri Kiến xưa thuộc phủ Lâm Bình.
Vào
những năm cuối thế kỷ thứ XIII, đầu thế kỷ thứ XIV
Am
là nơi thờ Phật
Được
gọi là Chùa
Am
Tri Kiến là một ngôi chùa của lỵ sở Tri Kiến của Bố Chính.
Địa
danh Bố Chính đã được Thánh Đăng Ngữ Lục Đại Việt sử ký toàn thư và Tam tổ thực
lục nhắc đến là Trại Bố Chính.
Miền
đất Quảng Bình bấy giờ cũng gọi là Trại Bố Chính.
Trại
là miền đất, vùng đất chưa được khai hóa ngang bằng với các Lộ.
Am
Tri Kiến là một ngôi chùa được lập để thờ PHật
Đáp
ứng nhu cầu tâm linh của cộng đồng cư
dân Đại Việt từ miền Bắc di trú vào miền đất mới để cố kết cộng đồng bản địa
Chính
nơi đây, Phật Hoàng Trần Nhân Tông đã đến ở và thuyết phap truyền giáo lý đạo
Phật năm 1301.
Chùa
Tri Kiến là ngôi chùa có mặt sớm nhất trên đất Quảng Bình.
Kể
từ khi ba châu Bố Chính, Địa Lý, Ma Linh chính thức sát nhập vào nước Đại Việt
Nó
phải có trươc khi PHật Hoàng Trần Nhân Tông để cư ngụ và thuyết pháp nhân chuyến
vân du hóa đạo 9 tháng tại các địa phương và Chiêm Thành vào năm 1301.
Am
Tri Kiến là tiền thân của chùa Kính Thiên.
Hai
chua cùng tọa lạc trên một vị trí địa lý xã An Trạch trước đây và phường Thuận
Trạch sau này.
Hai
chùa là một
Bởi
vì chung tên gọi dân gian là chùa Quan, Chùa Trạm.
Bởi
vì ở bên sông Bình Giang thuộc thôn Tri Kiến thời Trần
An
Trạch xã thời Lê
Phường
Thuận Trạch thời chúa Nguyễn
Thôn
Thuận Trạch, xã Mỹ Thủy, huyện Lệ Thủy, tihr Quảng Bình ngày nay.
Hiện
chưa có sử liệu nào ghi rõ am Tri Kiến là chùa Trạm tọa gần Bình Giang
Có
thể lý giải thông qua sự lưu truyền của câu ca dao trong dân gian:
“Tạnh
trời chuông Trạm ngân xa
Ngân
vào Hồ Xá, ngân qua Truông Hồ”
Chuông
Trạm tức là chuông chùa Trạm
Chùa
gần Trạm Bình Giang nên dân gian gọi là chùa Trạm.
Câu
ca dao còn khẳng định trước năm 1306, ở gần trmj Bình Giang có am, ngôi chùa lớn
Tiếng
chuông của nó ngân vào Hồ Xá, ngân qua Truông Hồ thuộc Ma Linh là đến hết vùng cực Nam của Đại Việt kể từ năm
1069 đến 1306.
Trạm
Bình Giang được xác là thuộc xã An Trạch
Hồng
Đức năm thứ 21 Canh Tuất (1490) Lê Thánh Tông định bản đồ thiên hạ đến xã,
thôn, phường, trang, ấp…
Biên
chép trong Ô châu cận lục; Trạm Bình Giang thuộc xã An Trạch.
Chùa
Kính Thiên trong Ô châu cận lục, Dương Văn An cũng chép ở gần Trạm Bình Giang.
Chùa
Kính Thiên ở gần trạm Bình Giang, huyện Lệ Thủy
Nước
biếc uốn quanh
Non
xanh chầu về
Hẳn
nhiên là một ngôi chùa u tịch
Một
cõi thàn tiên vậy
Nhà
cửa thôn xóm chẳng xa
Nhưng
tuyệt nhiên không nghe thấy tiếng gà gáy, chó sủa
Thật
là một ngôi chùa lớn ở Tân Bình vậy
Chùa
có đại hồng chuung nặng ngàn cân
Có
Tăng quan và người quét dọn
Bốn
mùa phụng thờ
…
Nay
hoa rụng, chim kêu
Chỉ
còn trơ nền cũ mà thôi….
Chùa
Kính Thiên cũng tọa lạc trân đất Thuận Trạch.
Sách
Đại Nam thực lục tiền biên quyển 1, mục Thái tổ Gia Dũ Hoàng đế Nguyễn Hoàng
ghi:
“Năm
Kỷ Dậu thứ 52 (1609), Thái tổ Gia Dũ Hoàng đế lập chùa Kính Thiên ở Thuận Trạch
(tên phường, thuộc huyện Lệ Thủy, tỉnh Quảng Bình).
Tri
Kiến, Kính Thiên là một.
Từ
năm 1627, do chiến tranh loạn lac dưới thời Trịnh – Nguyễn phân tranh, giống
như ccacs chùa khác, chùa Kính Thiên rơi vào cảnh hoang tàn đổ nát và quên lãng
Trong
sử sách không thấy ghi chép về đoạn này.
Đầu
năm 1716, mặc dù vẫn đang trong thời kỳ Trịnh – Nguyễn phân tranh, nhưng Chúa
Nguyễn Phúc Chu vẫn rất quan tâm trùng tu lại chùa Kính Thiên
Chúa
thân hành đến chùa ban hoành phi “ Kinh Thiên Tự”, hoành phi tiếp “ Vô Song
Phúc Đại” cùng 5 cặp liễn đối ngự chế với hàm ý súc tích ca ngơi sự huyền diệu
của giáo lý Phật giáo, lòng bác ái từ bi và những thiền tích của Cổ Phật trong giác ngộ thiện tâm của con người cũng
như sự soi chiếu tương quan chứng ngộ pháp vô vi nhiệm màu giữa Đời và Đạo.
Sách
Đại Nam thực lục tiền biên quyển 8, mục Hiển Tông Hiếu Minh Hoàng đế Nguyễn
Phúc Chu ghi:
“Năm
Bính Thân, triều Hiển Tông Hiếu Minh Hoàng đế thứ 25 (1716) mùa thu, tháng 8, sửa
chùa Kính Thiên ở Thuận Trạch
Lệ
cho Tả phủ Trịnh Thụ (Bấy giờ còn gọi Lan Quận công) trông coi việc tu sửa.
Chúa ân ban cho chùa biển ngạch “ Kính Thiên Tự” và câu liễn đối
Sách
Đại Nam thống chí ghi:
“Chùa
Hoằng Phúc tại phường Thuận Trạch, huyện Lệ Thủy. Chùa vốn do Thái tổ Gia Dũ
Hoàng đế (Nguyễn Hoàng) của bốn triều tạo dựng vào năm Kỷ Dậu thứ 52 (1609), có
tên là Kính Thiên Tự. Hiến Tông Hoàng đế (Nguyễn Phúc Ch) năm Bính Thân thứ 25
(1716) cho trùng tu và ban cho một biển hoành ngự đề “ Kính Thiên Tự”, một biển
hoành “Vô Song Phúc Địa”, cùng năm cặp liễn đối ngự chế.
Năm
câu đối liễn của Nguyễn Phúc Chu năm 1716:
Cặp
thứ nhất:
Huyền
bảo kính ư đương không sâm la vạn tượng
Xán
tâm đăng ư tính địa diệu chứng vô vi
Nghĩa
là:
Treo
gương báu giữa chỗ không, soi rõ chân tướng muôn vàn cảnh tượng
Khêu
sáng đèn tâm nơi thể tính, chứng ngộ được phapps vô vi nhiệm màu.
Cặp
thứ hai:
Đại
đạo hoắng nhân, địa bố hoàng kim liên hoa pphaps giới
Hằng
sa hiện tướng, tỏa liên bích ngọc thủy nguyệt thiền tâm.
Nghĩa
là:
Đạo
lớn giác ngộ con người, đất phủ hoàng kim, cnhar giới liên hoa cao quý
Khắp
cõi hiện tướng, nhà liền ngọc bích, lòng thiền như nước lặng trăng soi.
Cặp
thứ ba:
Đài
tâm lý chi hương, kim lô bảo triện tường vân hợp
Thức
truyền trung chi diệu bối diệp linh văn pháp vũ quân
Nghĩa
là:
Đốt
dang nén hương lòng, lòng vàng ngát hương xông như mây lành tụ
Hiểu
được sư huyền diệu trong đạo, lời kinh tiếng kệ như mưa pháp tưới đều
Cặp
thứ tư:
Náo
thị kiến thiền quang,động trung năng tĩnh
Vi
trần minh tự tính,hữu bổn tông vô
Nghĩa
là:
Xây
dựng thiền môn nơi náo thị, ấy là trong động có thể tìm lấy tĩnh
Ở
giữa cõi trần mà tự tánh vẫn sáng rỡ, ấy vì gốc của hữu vốn là vô.
Cặp
thứ năm:
Nhất
thanh phổ độ dã từ bi Cổ Phật
Ức
sinh giáo hóa dã hoằng nguyện Như Lai.
Nghĩa
là:
Một
tiếng độ khắp các loài chúng sinh, ấy là lòng từ bi của Cổ Phật
Ức
kiếp miệt mài giáo hóa, ấy là nguyện lớn của Như Lai.
Vua
Gia Long Nguyễn Ánh lấy lại thành Phú Xuân năm 1801, xưng ngôi Hoàng đế
Ngoài
việc củng cố công quyền, ông rất chú trọng củng cố thần quyền.
Gia
Long cho tái thiết lại các ngôi cùa bị hoang phế.
Trong
đó có chùa Khính Thiên – Hoằng Phúc
Về
danh xưng chùa Kính Thiên , chùa Hoằng Phúc các sách
Ô
châu cận lục, Đại Nam thực lục chính biên
Đại
Nam nhất thống chí đã nói rõ
Chùa
Hoằng Phúc được phục dựng và đổi tên từ Kinh Thiên thành Hoằng Phúc.
Vua
Minh Mạng từng nói:
“Danh
sơn, thắng tích không nên để vùi lấp đi
Huống
chi chùa chiền là nơi Hoàng toorvif dân cầu phúc.
Trẫm
lệnh cho tu bổ, sửa sang các chùa hư hại
Chùa
Kính Thiên – Hoằng Phúc cũng được phục dựng.”
Theo
Đại Nam nhất thống chí
Năm
Minh Mạng thứ 2 trong chuyến ngự giá Bắc tuần
Vua
ghé thăm chùa Kính Thiên và đổi tên là “Hoằng Phúc Tự”
(Ngôi
chùa mở rộng ơn phước, phúc lớn)
Sách
Đại Nam thực lục chính biên (Đệ nhị kỷ, quyển 21 ghi:
“Tháng
6 Quý Mùi, niên hiệu Minh Mạng năm thứ 4 (1823) trùng tu chùa Kính Thiên ở Quảng
bình.
Chùa
năm ở phường Thuận Trạch do Thái tổ Gia Dũ Hoàng đế Nguyễn Hoàng cho xây dựng
tu bổ
Nhà
vua ban caaps cho 100 lạng bạc để trùng tu.
Năm
Minh Mạng thứ 7 (1826) Minh Mạng lại ban cho 150 lạng bạc để sửa chữa.
Ngày
27 tháng 6 năm Kỷ hợi (1839) niên hiệu Minh Mạng thứ 20, nhân dân đã quyên góp
chú đúc lại Đại hồng chung năm xưa đã bị thất lạc và đề tên Hoằng Phúc linh
chung.
Năm
Minh Mạng thứ 21 (1840), nhân lễ mừng thọ của nhà vua, Chùa đã xin tâu làm lễ
khai kinh chúc thọ, được ban cho 200 quan tiền.
Năm
Thiệu Trị thứ 2 (1842) , vua thánh goias
tuần hành pphw[ng Bắc, ban cho Chùa 300 quan tiền để tôn tạo chùa.
Đích
thân vua Thiệu Trị và Hoàng đệ Quận công Nguyễn Phúc Miên Thẩm – Tùng Thiện
Vương ngự chế ban hai bài thơ, cho khắc vào bảng đồng, treo ở Chùa để ghi nhớ
thắng tích ca ngợi sự huyền diệu trong thanh tĩnh hư vô của nhà Phật
Mong
nhà phật mở rộng từ bi, giáo hóa ban quả phước cho chung sinh.
Bài
thơ “Đề Hoằng Phúc Tự” của vua Thiệu Trị
Thanh
tịnh hư vô diệu mạc cùng
Hà
quan hiến hối sắc quy không
Khuê
quang chiếu diệu trùng tân hoán
Bảo
lạc từ bi đại khuếch sung
Vạn
hóa diệu nguyên hoằng giác diệu
Thiên
thu kim bích quốc ân hồng
Nguyện
hoằng phước quá chung sinh tại
Phật
nhật tăng huy để đạo long.
Dịch
nghĩa:
Thanh
tính hư vô của nhà Phật thật huyền diệu vô cùng
Chẳng
màng hiển hiện hay mất đi bởi sắc cũng hoàn không.
Nhờ
ánh sao Khuê chiếu sang mà vẻ rực rỡ của chùa được trùng tân
Đề
nẻo từ bi của nhà Phật càng thêm mở rộng
Việc
giáo hóa đời sau thể hiện cái hiểu rốt ráo của bậc đế t4haatj diệu kỳ
Để
ngàn năm chùa Phật vẫn nhận được ân điển của nước thật lớn lao
Xin
nguyện ban rộng khắp quả phước cho chúng sinh đều thỏa
Mặt
trời Phật pháp càng sáng thò đạo của Vua càng hưng thịnh.
Dịch
thơ:
Bài
thơ “ Hoằng Phúc Tự của Tùng Thiện Vương – quận công Nguyễn Phúc Miên Thẩm
HOẰNG
PHÚC TỰ
Cổ
sát ỷ xuân lâm
Thiền
phi cách trúc lâm
Yên
hàn giang nguyệt đạm
Hoa
mật dạ chung thâm
Thắng
tích do kham thưởng
Cao
tăng bất khả tầm
Hiếu
Minh thần hàn tại
Bái
độc lệ triêu khâm
Dịch
nghĩa:
CHÙA
HOẰNG PHÚC
Chùa
cổ nương rừng xanh
Cửa
thiền lìa sxa bóng tre
Sương
khói lạnh, bóng nguyệt rơi trên sông mờ
Cây
hoa rậm, tiếng chuông chìm giữa đêm sâu
Thắng
tích còn khó thưởng thức
Cao
tăng tìm chẳng thấy đâu
Bút
tích của chúa Hiếu Minh vẫn còn đó
Cúi
lạy đọc mà lệ tràn áo khăn!
Dịch
thơ:Năm Thiệu Trị thứ 6 (1846), nhân lễ mừng thọ 40 tuổi của vua, chùa được thưởng
300 quan tiền.
Năm
1879, chùa lại cử hành lễ khai kinh chúc thọ vua Tự Đức, được ban cấp 200 quan
tiền.
Cuối
thế kỷ XIX, trải qua chiến tranh, nhất là biến cố Cần Vương, chùa bị hư hỏng dần.
Đầu
thế ký XX, khoảng năm 1918, chùa có thiện duyên được Thượng thư Bộ Lễ phát tâm
trùng tu
Năm
1943, chùa Hoằng Phúc lại tiếp tục tu sửa với sự phát tâm của một thí chủ là
Lãnh binh Nguyễn Đại Bốn.
Năm
1997, trên nền chùa Hoằng Phúc cũ đã dựng lên một am nhỏ để làm nơi thờ đức Phật,
đáp ứng nguyện vọng của đông đảo Phật tử và nhân dân trong vùng.
Tên
gọi thân thiết dân gian của chùa Tri Kiến, Kính Thiên Tự, Hoằng Phúc là chùa
Quan, chùa Trạm.
Theo
báo cáo khoa học “Di tích lịch sử chùa Hoằng Phúc”
Trạm
Bình Giang là một trong những Trạm công lớn của Nhà nước trên đường thiên
lý do Nhà nước phong kiến thiết lập để
phục vụ truyền tin, đón tiếp quan khách trên đường thực hiện công vụ.
Đây
là Trạm dừng chân, đổi ngựa trên đường thiên lý Bắc am qua các thời từ Lý, Trần
Lê đến thời các chúa Nguyễn và nhà Nguyễn xứ Đàng Trong say này.
Trạm
Bình Giang năm bên bờ hữu sông Bình Giang (sông Kiến Giang hiện giờ) thuộc Tri
Kiến, huyện Tri Kiến xưa, sau là huyện Nha Nghi, nay là huyện Lệ Thủy.
Đây
là Trạm quan trọng trong vùng cực Nam Đị Việt từ thời Lý, Trần.
Do
chùa gần Trạm Bình Giang nên dân gian gọi là chùa Trạm.
Thời
kỳ dinh Quảng Bình đóng ở thôn An Trạch, dân gian gọi là Dinh Trạm.
Chùa
Hoằng Phúc dân gian gọi là chùa Quan
Vì
khởi nguồn từ am Tri Kiến đênchùa Kính Thiên Tự, Hoằng Phúc Tự luôn được các
vương triều phong kiến từ thời Trần, đến thời Nguyễn luôn bảo hộ.
Theo
Ô châu cận lục
Kính
Thiên đã là ngôi Quan tự
Chùa
Quan – là chùa công của Nhà nước, có Tăng quan coi giữ goi là Tự Chính.
Vì
vậy chùa Hoằng Phúc dân gian gọi là chùa Quan!
Chùa
Hoằng Phúc với những sự kiện lịch sử tiêu biểu
Diễn
trình hình thành và kiến tạo của chùa Hoằng Phúc không chỉ là nơi thờ tự các đức
Phật
Nơi
hoằng dương Phật pháp
Nó
còn gắn liền với những sự kiện lịch sử tiêu biểu của quê tôi qua các thời kỳ
Trong
thời kỳ tiền khởi nghĩa
Nằm
ở vị trí bán sơn địa, xung quanh cây cối um tùm và giáp với Mỹ Thổ - Trung Lực
Nơi
ra đời chị bộ Công jsanr đầu tiên của Quảng bình (tháng 11/ 1931)
Chùa
Hoằng Phúc đã trở thành cơ sở Cách mạng
Nuôi
dấu chở che cán bộ về hoạt động
Tại
ngôi chùa này đã có bao lần các đồng chí đảng viên chi bộ Trung Lực – Mỹ Thổ về
tuyên truyền để thành lập nhóm Thanh
niên Cách mạng
Nhòm
gồm có Trần Chí Hiền, Võ Chí Vệ, Hoàng Thị Khê, Lê Hoãn, Hoàng Minh Kính, Trần
Tác, Trần Thị Giữ…
Cũng
từ đây nhóm Thanh niên Cách mạng đã đề ra việc thành lập các hội ái hữu hội gặt,
hội rừng… để tập hợp lực lượng chống sưu cao, thuế nặng, chống đại chủ bóc lột
Đồng
thời tuyên truyền chữ quốc ngữ khơi dậy lòng yêu nước, tư tưởng Cách mạng trong
các tầng lớp nhân dân.
Đặc
biết năm 1943, đồng chí Bùi Trung Lập ,cán bộ của Xứ ủy Trung Kỳ đã đến đây gặp
gỡ các cán bộ Cách mạng, tuyên truyền chủ trương đường lối của Đảng., tinh thần
đấu tranh đến quần chúng nhân dân.
Đầu tháng năm 1945, theo chỉ thị của cấp trên,
Ban vận động khởi nghĩa của các làng đã thành lập. Mỹ Trạch Thượng có Trần Chí
Hiền,Võ Chí Vệ, Hoàng Mình Kính…Phường Thuận Thuận Trạch có Hoàng Thị Khê, Lê
Hoãn…đứng đầu đoàn quân dân cướp chính quyền quan lại phong kiến huyện Lệ Thủy
Chùa
Hoằng Phúc là nơi hội họp để triền khai chỉ thị khởi nghĩa..
Các
Đoàn Cách mạng cướp chính quyèn thành công vào ngày 243 – 8 - 1945!
Trong
kháng chiến chống Mỹ, cứu nước Thuận Trạch , Mỹ Thủ là nơi tiếp giáp với tiền
tuyến lớn. Nơi đây là hậu cứ của chiến trường B
Nơi
tập kết hàng hóa, vũ khí, điểm dừng chân của các đơn vị trước khi vào chiến trường.
Năm
1967, do tính chất cuộc chiến tranh phá hoại ngày càng ác liệt
Địch
phát hiện Thuận Trạch, Mỹ Thủy có các đơn vị bộ đội đóng quân
Nơi
tập kết hàng hóa, vũ khí chi viện cho miền Nam
Chúng
đã đánh phá liên tục
Chùa
Hoàng Phúc cũng bị đánh sập, san phẳng sau những đợt không kích của máy bay Mỹ..
Trong những năm tháng khó khăn,gian khổ, chết
chóc bởi cuộc chiến tran phá hoại của đế quốc Mỹ
Các
sư tăng chùa Hoằng Phúc
Cùng
các phật tử đã đóng góp sức người, sức của cho công cuộc bảo vệ miền Bắc, giải
phóng miền Nam.
Các
phật tử đã tham gia chiến đấu, phục vụ chiến đấu tại địa phương.
Nhiều
người tham gia quân đội, thanh niên xung phong, dân công hỏa tuyến, góp phần đẩy
nhanh sự nghiệp giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước.
Cấu
trúc chùa Hoằng Phúc
Chùa
Hoằng Phúc là một ngôi chùa lớn.
Có
nhà bái đường, nhà tăng.
Hai
bên là hồ sen.
Tôi
từng đến tắm hồ sen của Chùa
Rôi
cũng tốp trẻ trong làng ra câu cá ở hồ sen thời chùa bị máy bay Mỹ ném bom!
Hồ
dài khá rộng và sâu.
Cá
rất nhiêu
Sen
cũng rất nhiều!
Chùa
trồng nhiều cây cảnh và cây ăn quả
Điển
hình là cây xoài.
Như
đã kể trên
Xoài
rất tốt
Cao
to như cây cổ thụ.
Quả
ít nhưng rất ngọt.
Xoài
trồng hai bên hồ lối vào chùa!
Tốp
trẻ chúng tôi ăn cùi xoài, còn hột xoài nhờ các anh lớn làm cỗi xay thóc.
Cách
làm:
Lấy
hai hạt xoài to
Cưa
làm nửa một hạt xoài
Lấy
ruột cho rỗng, giưa chui một lỗ.
Hạt
xoài còn lại để nguyên, xuyên một chốt tre dài, tay trẻ con cầm được
Đặt
lên hạt xoài cắt nửa
Xuyên
dây lòi (dây xe sợi săn chắc) quay nhiều vòng tích dây thừng.
Sau
đó thả ra.
Hạt
xoài nguyên để trên quay như cối xay thóc!
Trò
chơi cối xay thóc như thế chơi hết tuổi thơ chúng tôi!
Cổng
tam quan của Chùa to và rộng với hai cổng tả và hữu và cổng chinihs.
Cổng
chính có hai mái.
Trong
những ngày bình thường
Phật
tử đo vào hai cổng tả và hữu.
Những
ngày lễ ớn mới được đi cửa chính.
Trước
cổng chính có đặt tấm bia
“Thượng
cái hạ mã”
Ai
đi ngang qua Chùa phải xuống xư, xuống ngựa
Đám
tang đi qua không được trống kèn!
Chùa
Hoắng Phúc nằm vị trí ở giữa làng Thuận Trạch (tục gọi làng Trạm) cahs sông
Bình Giang (Kiến Giang) 400m về phía Tây.
Cạnh
đường liên thôn, liên xã:
Thuận
Trạch - Mỹ Thủy, làng Dương - Dương Thủy, Mỹ Thổ - Tân Thủy, chợ Mai – Hưng Thủy
Thuận
Trạch – Mỹ thủy, Uẩn Áo - Liên Thủy…
Cùa
Hoằng Phúc nằm ở thế đất cao ráo, có ao hồ bao bọc hai bên tả hữu.
Đây
là vùng đất tốt, đất thiêng.
Nên
chúa Nguyễn Phúc Chu mới tặng cho Chùa bức hoành phi “ Vô Song Phúc Đại”
Vùng
đất phúc, đất thiêng có một không hai!
Chùa
Hoằng Phúc có kiến trúc gần giống với chùa Quốc Ân ở phường Trường An thành phố
Huế.
Hệ
thống xây dựng của chùa Hoằng Phúc xưa không còn.
Di
tích cò lại là nền mòng của nhà bái đường, giếng Chùa và một số tượng Phật, tượng
thánh, đại hồng chung, tòa cửu long, các pháp khí, đối, liễn, đồ thơ cúng…
Cống
Chùa còn lại là cổng “ Tả Quảng Độ Môn”
Cổng
bên trài từ trong Chùa nhìn ra.
Mấy
bố con tôi và chau Anh Tuấn con chú em Lực năm Đinh Dậu (2018) về thăm que có
ra viếng Chùa đã chụp ảnh lưu niệm ở cổng Tả Quản Độ Môn.
Cổng
vẫn giữ thế như ngày xưa nhưng cây si, cây đa đã bao trùm gần hết mặt trên của
cổng.
Cổng
này có chiều cao 4,25m; bề dày cổng 1,37m.
Trụ
cổng cao 2,9m, rộng 1,33m, dày 1,58,.
Móng
trụ 0,55m.
Vòm
cửa cao 1,85m và rộng 1,58m.
Phía
mái cổng được đắp phù điêu tạo hình sen hóa dạng rất khéo léo.
Xung
quanh trang trí dây cuốn thành nên vẻ mềm mại của lá sen trên mái cổng khô cứng.
Đồng
thời vừa tôn lên nét uy dũng của mặt rồng
Tạo
sự cân xứng hài hòa trong việc phối trí giữa mái cổng và cấu trúc tổng thể của
vòm cổng.
Mô
– típ “Long hàm thọ” trang trí trên mái cổng đặc trưng, phổ biến từ cuối thế kỷ
XIX đến đầu thế kỷ XX thường có ở đình chùa, miếu mạo, tín ngưỡng của miền Trung Việt Nam.
Ngay
trên vòm cổng là bốn đại tự “ Tả Quảng Độ Môn”
Hai
cổng chùa Hoẳng Phúc đường bệ, hoành tráng đến mức ngay cả kinh đô Huế trong
giai đoạn ấy không có được mấy chùa có kiểu tổ hợp cống kỳ vỹ như thế.
Điển
hình kiểu cổng của chùa Hoằng Phúc còn lại ở Huế là
Lăng
vua Minh Mạng, Tả Hồng Môn, Hữu Hồng Môn và Đại Hồng Môn.
Trước
đây hệ thống tượng thờ của chùa Hoằng Phúc có số lượng khá lớn
Được
thiết kế trên 7 cấp thờ với nhiều tượng lớn nhỏ khác nhau.
Hiện
Chùa còn lưu lại 7 pho tượng các loại.
Chất
liệu tạo tượng, chế tác, kiểu dáng, mỹ thuật trang trí khác khác nhau.
Trong
đó có 5 ppho tượng bằng đồng
1
tượng Phật Thích ca
1
tượn – Niêm hoa vi tiếu Bồ Tát – Địa Tạng
3
pho tượng Ngọc Hoàng, Nam Tào, Bắc Đẩu
2
pho tượng bằng gỗ: Hộ Pháp, Giám Trai Sứ Giả.
Tượng
Phật Thích ca:
Chất
liệu bằng đồng
Hiện
bị gảy mất đầu
Tượng
ngồi kiết- giả tọa thiền
Áo
cà sa khoác phủ toàn thân
Một
tay bắt quyết ấn chủ với ngón taytror chụm vào ngón tay cái , ba ngón tay còn lại
duổi thẳng.
Đặt
ngửa trên bàn chân
Một
bàn tay đưa lên đến giữa ngực khum lại như đang cầm đóa sen.
Đây
là kiểu tượng ngồi tọa thiền theo thể loại Hàng Ma
Một
hệ tượng cổ của các chùa nước ta.
Loại
tượng “ Niêm hoa vi tiếu”
Tượng
nặng khoảng 5 kg
Từ
vai xuống cao 15cm
Vai
rộng 10 cm
Vòng
chân xếp bàng rộng 13,5cm
Thân
dày 5 cm
Phần
đế cao 10 cm.
Tượng
Phật Địa Tạng
Được
đúc bằng đồng trong tư thế ngồi thiền
Chân
xếp bàng, tay phải để trước ngực
Tay
trái để ngã đặt trước bụng
Mắt
nghắm.
Y
cà sa choàng quanh người
Đầu
đội mũ Tỳ - lư
Toàn
tượng được sơn màu vàng
Khuôn
mặt và đầu được sơn màu đỏ
Tượng
cao 34 cm, vai rộng 13 cm, thân dày 5,5 cm, đế rộng 15 cm.
Tượng
Phật Đại Tạng với thế ngồi và kích thước nhỏ là một hệ tượng khá hiếm
Tượng
Ngọc Hoàng
Chất
liệu bằng dồng
Tượng
ngồi trên ngai gỗ
Hiện
không còn nguyên vẹn
Đầu
tượng đội mũ bình thiên (mũ miện)
Mặt
trước mũ (ở giữa) có phù điêu rồng bay lượn rất uy mãnh
Vành
mũ (phía trước) có phù điêu hình mặt trời lửa và hai con rồng chầu vào
Thân tượng khoác long bà
Phần
áo trước bụng trang trí phù điêu hình con roonggf đang uốn lượn
Lưng
có thắt dây đai ngọc rủ xuống
Đai
ngọc có trang trí hoa văn
Tượng
cao 95 cm.
Tương
Nam Tào và Bắc Đẩu
Chất
liệu bằng đồng
Tượng
ngồi
Cả
hai pho còn nguyên vẹn nhưng ngai gỗ không còn
Cả
hai pho tượng kích cỡ như nhau.
Chân
tượng buông thõng xuống
Hai
bàn chân đặt cân đối
Độ
rộng giữa hai bàn chân là 0,40m
Hai
tay duỗi đặt trên hai đầu gối
Trong
tay trái cầm cuốn sổ
Tay
phải cầm bút
Đây
là hai vị giữ và ghi chép số sinh và số tử.
Đầu
tượng đội mũ phốc đầu
Mặt
trước mũ có trang trí hai phù điêu mặt trời lửa
Vành
mũ (phía trước) c ó phù điêu hình mặt trời lửa và hai con rồng chầu vào
Thân
tượng khoác cẩm bào (riều bào).
Từ
vành cổ xuống ngực áo có trang trí phù điêu ngocjn hư ý
Hai
bên phù điêu có rồng chầu
Vạt
áo trước bụng có trang trí phù điêu “ Long mã phụ thọ”
Lưng
có thắt đại ngọc rũ xuống
Trên
đai có trang trí hoa văn
Tượng
cao 80 cm (tính từ chân tượng đến mũ)
Đầu
tượng cao 28 cm (tính cả mũ)
Thân
tượng cao 52 cm
Chân
đế tượng rộng 60 cm, dày 35 cm.
Dựa
vào kỹ thuật chế tác, độ phân hóa của đồng qua thời gian cùng với việc người ta
đặt những đồng tiền yểm tâm tượng
Các
nhà nghiên cứu nhận định:
Cả
3 pho tượng Ngọc Hoàng, Nam Tào và Bắc Đẩu có niên đại sớm hờn thời Nguyễn
Khoảng
thời Hậu Lê.
Tượng
Hộ Pháp
Chất
liệu bằng gồ
Tượng
theo thế đứng trên bệ
Dáng
hình võ tướng
Tay
trái chắp trước ngực
Đầu
đội mu kim khôi
Thân
mặc giáp trụ có hình rồng uốn lượn
Tay
trái chắp trước ngực
Tay
phải đỡ binh khí vác qua vai
Chân
đi ủng
Hai
chân đứng so le như bước tới.
Tượng
cao 122 cm (tính cả đế 12 cm)
Đầu
tượng cao 23 cm, vai rộng 33 cm, phần hong dày 26 cm
Đế
tượng hình chữ nhật dài 50 cm, rộng 42 cm, cao 12 cm.
Tượng
Giám Trai Sứ Giả
Chất
liệu bằng gỗ
Tượng
theo thế ngồi trên ngai
Đầu
đội mũ buộc khăn
Hình
giữa ngực có một nút thắt
Một
tay để trên đầu gối
Một
tay cầm sách
Hai
chân thu hẳn trong phần ngai ngồi
Tượng
cao 100 cm, rộng 40 cm,
Phần
đầu cao 21 cm
Vai
rộng 24 cm
Bệ
tượng hình lục giác đều
Với
cạnh 22 cm,cao 10 cm.Tòa Cửu Long
Tòa
Cửu Long là biểu tượng ý nghĩa và sinh động
nhất về truyền thuyết Đản sinhcuar Đức PHật Thích ca.
Tòa
Cửu Long của chùa Hoằng Phúc là một bảo vật quý.
Mặc
dù so với tòa Cửu Long khác nó được chế tác đơn giản hơn.
Nhưng
nó được đánh giá cao về mặt khỹ thuật, nghệ thuật tạo hình cũng như ý nghĩa biểu
hiện.
Tòa
được kết cấu làm hai phần
-
Phần đế
-
Phần thân.
Phần
đế hình khối tròn, chất liệu gỗ, được chạm trổ tạo hình như một long ngai.
Trên
mặt đế có hai lỗ mộng nhỏ nằm sát hai bên thành dùng để khớp nối với phần thân
Cửu Long
Chính
giữa mặt đế được khoét một hình vuông
Nơi
được tôn trí Phật Đản sinh (hiện không còn)
Phần
thaqn Cửu Long được chế tác bằng đồng
Hình
elip cong vươn ra phía trước như bảo cái
Được
sơn son thiếp vàng
Trên
ình elip được bố trí 9 đầu rồng.
Mỗi
đầu rồng lộ rõ hai chân trước
Đuôi
kết nối với nhau liên hoàn bằng các vân mây.
Đầu
rồng chính được bố trí ở nơi cao nhất trên hình cung e lip
Rồng
có dáng vẽ uy dũng
Đầu
mập hơn so với thân
Mặt
lộ ra ngoài
Miệng
rộng
Mũi
sư tử
Trán
vồ nhô cao
Đầu
nhô hẳn ra pphias trước tạo thành một cái bảo che chở cho pho tượng Đức Phật Đản
sinh phía dưới
Trên
đầu có hai sừng.
Tám
đầu con rồng còn lại được bố trí đối xứng nhau ở hai bên ôm lấy vầng mây phía
sau tạo thành hình thân quang.
Tòa
cao (từ đế dến đầu rồng) 62, 5 cm
Chiều
rộng nhất ở giữa là 56 cm.
Tòa
sen
Tòa
làm bằng chất liệu gỗ, sơn son (chỉ còn lại ¼)
Chùa
Hoằng Phúc còn giữ được một tòa sen nguyên vẹn.
Hiện
được sử dụng để tôn thờ Đức Phật Thích ca.
Tòa
có đường kính 55 cm, cao 20 cm.
Cặp
Hạc cổ
Được
làm bằng chất liệu gồ
Chạm
trỏ rất đẹp
Dáng
vẻ thanh thoát.
Đại
hồng chung
Hiện
nay chùa Hoằng Phúc còn bảo tồn Đại hồng chung đúc năm Minh Mạng thứ 20 (1839)
Đề
tên “Hoằng Phúc linh chung”
Quả
chuông thiêng của chùa Hoằng Phúc.
Có
khắc bài mình
“Hoằng Phúc hồng chung minh ký”
“Hoằng Phúc hồng chung minh ký”
Đây
là quả Đại hồng chung được khắc sau thời Minh Mạng
Trước
đây chùa Hoằng Phúc còn có một quả Đại hồng chung nghìn cân 9đã thất lạc).
Trong
Ô châu caanjh lục, Tiến sĩ Dương Văn An đã ghi chép
Tiếng
Đại hồng chung và ngôi cổ tự hoằng Phúc (Kính Thiên Tự) đã trở thành biểu rượng
văn hóa tâm linh tiêu biểu của một vùng cư dân rộng lớn kéo dài từ nam Đèo
Ngang đến.
phần đất phía bắc tỉn Quảng Trị
Dân
gian lưu truyền câu ca đã dẫn ở trên
Tận trời chuông Trạm ngân xa
Tận trời chuông Trạm ngân xa
Ngân
vào Hồ Xá, ngân qua chợ Cầu
Bài
khắc minh Đại hồng chung năm Minh Mạng thứ 20 (1839)
Nguyên
văn:
Phiên
âm:
Hoằng
Phúc hồng chung minh ký
Vô
song phúc địa
Đệ
nhất Phạm cung
Tứ
dân Thuận Trạch
Vạn
pháp quy tông
Tư
hội tịnh thổ
Tái
chú hồng chung
Bồ
thanh nhất hống
Tượng
pháp tứ thông
Khoát
khai đạo dũ
Tỉnh
khởi mê lung
Tam
minh mậu đạt
Lục
nhập tiêu dung
Ngưỡng
kỳ Tam Bảo
Phủ
giám đan trung
Tam
duyên liễu thoát
Ngũ
phúc lai sùng
Pháp
âm trường hưởng
Phật
nhật thường trung
Nhi
kim nhi hậu
Truyền
chi vô cùng
Cung
hạ bái minh
Thời
Minh Mạng nhị thập niên, tuế thứ Kỷ Hợi lục nguyệt, nhị thập thất nhật chú
Tôi
tự dịch nghìa kiêm dịch thơ:
Bài
minh (ghi lại việc chú đúc) chuông chùa Hoằng Phúc
Đất
phước vô song
Phạm
vũ bậc nhất
Tứ
dân Thuận Trạch
Vạn
pháp một dòng
Nay
về đất Phật
Đúc
lại hồng chung
Một
tiếng chuông gióng
Phật
pháp cùng thông
Đạo
lành rộng mở
Tỉnh
ngộ mê lòng
Ba
minh sáng tỏ
Sáu
nhập dung thông
Ngưỡng
cầu Tam Bảo
Cúi
xét thành tâm
Ba
duyên hội tujNawm phúc hợp cùng
Pháp
âm vang mãi
Ngày
Phật sáng trong
Từ
nay về cuối
Truyền
đến vô cùng
Dân
minh cung kính!
Chú
đúc ngày 27 tháng 6 năm Kỷ Hợi (1839) niên hiệu Minh Mạng thứ 20.
Bài
minh khắc trên chuông chùa Hoằng Phúc là một tư liệu quý hiếm
Lưu
giữ nhieeuf thông tin có giá trị
Liên
quan đến ngôi cổ tự được xếp vào hạng lâu nhất của Quảng Bình.
Bài
minh với văn phong cao nhã
Tư
tưởng uyên thâm
Sử
dụng nhiều điển tích, điển cố, nhiều thuật ngữ Phật học chuyên sâu.
Những
lời thống thiết trong bài minh
Chính
là tâm nguyện của các bậc tiên vương nhà Nguyễn
Vua
Thiệu Trị ghe thăm đọc những dòng này
Ông
đã rưng rưng rơi lệ
Đã
ghi lại mấy câu trong bài thơ “Đề Hoằng Phúc tự”
“Vạn
giác diêu nguyên hoàng giác diệu
Thiên
thu kim bích quốc ân hồng
Nguyện
hoằng phước quả chúng sinh toại
Phật
nhật tăng huy đế đạo long”
Nghĩa
là:
Việc
giáo hóa muôn đời của các bậc tiên đế thật diệu kỳ
Đến
đời sau chùa Phật vẫn ghi dấu ấn trạch lớn của nước nhà
Nguyện
rộng gieo quả phước để chúng sinh khắp cõi cùng chung hưởng
Mặt
trời Phật pháp càng sáng tỏ thì đạo của vua càng hưng thịnh vậy.)
Đại
Hồng chung chùa Hoằng Phúc nặng 80 kg, cao 1,1 m, đường kính 0,5 m
Tai
treo chạm nổi hai con rồng, miệng ngậm ngọc, chân 4 móng, tai cao 0,3 m.
Thân
chuông có khắc tỉ mỹ hoa văn, hoa lá cách điệu
Có
khắc nổi hình 4 mặt trời.
Chuông
có 4 núm tượng trưng cho bốn mùa Xuan, Hạ, Thu, Đông
Ở
các núm có khắc 4 chữ Hàn:
Nùm
khắc chx Hoằng
Núm
hai khắc chữ Phúc
Núm
ba khắc chữ Linh
Núm
bốn khắc Chung.
Chùa
có lưu giữ bức hoành phi cổ, chất liệu bằng gỗ ghi “ Hoằng PHúc tự”
Hiện
nay chỉ còn khung sơn son tiếp vàng.
Kung
gỗ dài 1,4 m, rộng 0,5 m
1
câu đối bằng gỗ (hiện còn vế đối trước)
Nguyên
văn chwxx Hán:
Phiên
âm:
Trang
lĩnh đối liên đài thường văn cổ
Khải
Định tam niên Mậu Ngọ
Dịch
nghĩa:
Đài
sen đối núi thiêng thường nghe tiếng trống (ở nơi cửa Phật thường nghe tiếng trống
“Bát nhã” – Cách đánh riêng của nhà Chùa)
KHải
Định năm thứ ba Mậu Ngọ (1918)
Một
vị thần bằng gỗ
Nguyên
văn chữ Hán:
Phiên
âm:
Phụng
vi thập phương quá cố liệt vị nhất thiết thần chánhđẳng chi hương linh tọa vị
Nghĩa
là:
Kính
thờ hương linh của các chư vị thần chánh đẳng trong mười phương
Một
biển bằng gỗ có khắc ba đại tự “ Thiếu Lâm Tự”
Nguyên
văn chữ Hán:
Đệ
tử Lễ bộ Thượng thư trí sự Phạm Hữu Điền.
Khải
Định ngũ niên
Nghĩa
là:
Đệ
tử của Chùa là Phạm Hữu Điển nguyên là Thượng thư Bộ Lễ
Khải
Định năm thứ 5 (1920)
Kết
quả khảo cứu của các nhà khoa học, nhà nghiên cứu cho thấy
Chùa
Hoằng Phúc đã lưu giữ nhiều hiện vật quý hiếm
Đa
dạng nhiều chủng loại
Với
trình độ kỹ thuật chế tác khác nhau
Mang
nhiều phong cách nghệ thuật của nhiều triều đại trong lịch sử.Đồng thời cũng khẳng
định rằng
So
với miền Thuận Quảng
Quảng
Bình sát nhập vào quốc gia Đại Việt sớm hơn 237 năm(1069 – 1306).
Các
ngôi cổ tự của người Việt hiện diện trên đất này cũng có trước miền Thuận Quảng
hàng trăm năm.
Điều
đó đã góp phần lý giải vì sao tại vùng đất này có sự hiện diện chồng xếp lên
nhau của các hệ tượng, pháp khí Phật giáo đa nguồn gốc, đa phong cách, đa chất
liệu
Chùa
Hoằng Phúc (am Tri Kiến, Kính Thiên tự) là di sản của một trung tâm văn hóa tâm
linh Phật giáo của Đại Việt được cộng đồng dân cư mang theo trong quá trình di
dân mở cõi phương Nam thời Lý – Trần.
Góp
phần giữ gìn bản sắc Đại Việt khi đến vùng đất mới để an cư, lạc nghiệp.
Đây
là di tích được các nhân vật lịch sử của quốc gia phong kiến
Phật
hoàng Trần Nhân Tông, chuias tiên Nguyễn Hoàng, chúa Nguyễn Phúc Chu, vua Minh
Mạng, vua Thiệu Trị, Tùng Thiện Quận công Nguyễn Phúc Miên Thẩm, vua Tự Đức…)
đã đến thăm và quan tâm trùng tu, phục dựng,
chấn hưng.
Phục
vụ cho sự đồng hóa dân tộc trong quá trình mở cõi
Cố
kết cộng đồng trong sinh hoạt văn hóa
tâm linh để tạo sức mạnh.
Cố
kết lòng dân thông quâ đức tin đầy lòng vị tha của Đạo Phật
Là
di tích vào loại cổ xưa nhất chứa đựng nhiều thông điệp về lịch sử Phật giáo Đại
Việt thâm nhập vào xứ Đàng Trong.
Nơi
ddaaay có sức hút của hội nhập
Sức
lan tỏa lớn của một trung tâm Phật giáo Đại Viết xứ Đàng Trong.
Với
chiều dài lịch sử 718 năm, chùa Hoằng Phúc xứng đáng là chùa cổ danh thắng của
Quảng Bình
Của
xứ Đàng Trong
Và
của cả Việt Nam.
Ngày
9 tháng 12 năm 2015, Bộ Văn hóa Thể thao đã ban hành quyết định số 4248. QQĐ –
BVHTTDL xếp hạng chùa Hoằng Phúc là Di tích Quốc gia.
Trải qua
thời gian, chùa đã bị hư hại, chùa bị sụp đổ trong cơn bão số 12 năm 1985. Đến
thời điểm năm 2014, có một số hiện vật của chùa được lưu giữ như: mõ, một quả
chuông bằng đồng cân 80 kg, cao 1,1m, đường kính 0,5m có tai treo chạm nổi
hai con rồng miệng ngậm ngọc cùng nhiều hoa văn tinh xảo, tượng Phật, lư hương,
đế đèn, bình hoa, tòa sen. Năm 2010, chùa này được Ủy ban nhân dân
tỉnh Quảng Bình xếp hạng là di tích lịch sử cấp tỉnh.
Ngày
30/11/2014, công trình phục dựng chùa Hoằng Phúc do UBND huyện Lệ Thủy làm chủ
đầu tư với tổng số vốn 40,4 tỷ đồng từ đóng góp của cá nhân và các doanh
nghiệp, nhà hảo tâm và phật tử trong cả nước. Chùa Hoằng Phúc được phục dựng,
tôn tạo theo hướng chính và giữ nguyên trạng chùa cũ, theo lối chùa cổ
thời nhà Trần, gồm: tam quan ngoại, tam quan nội, tháp phật, tam bảo chùa.
Công trình dự kiến hoàn thành vào năm 2016.
Ngày
16/1/2016, chùa đã được làm lễ khánh hạ. Chùa được Giáo hội Phật giáo Myanmar
tặng viên xá lợi của Phật tổ Thích Ca Mâu Ni từ chùa
Vàng Shwedagon (Yangon, Myanmar. Nhân dịp khánh hạ, Bộ Văn hóa, Thể
thao và Du lịch đã trao bằng Di tích quốc gia Việt Nam.
Những nhà sư tu hành đều biết:
Chùa Hoằng Phúc với khởi nguồn là am Tri Kiến, chùa Kính
Thiên
ở gần trạm Bình Giang, bên bờ hữu sông Bình Giang (nay gọi là
sông Kiến Giang),
tọa trên vùng đất thôn Tri Kiến, huyện Tri Kiến cổ,
sau là huyện Nha Nghi và nay là thôn Thuận Trạch, xã Mỹ Thủy,
huyện Lệ Thủy, tỉnh Quảng Bình.
Bà con trong Làng và dân thập phương gọi tên gọi dân gian
thân thiết là chùa Quan, chùa Trạm.
Từ sự kiện ghi dấu bước chân hành hỏa của Phật Hoàng Trần
Nhân Tông trong chuyến vân du phương Nam năm 1301 đến am Tri Kiến để ở và thuyết
pháp truyền giảng giáo lý Phật giáo,
ngôi thảo am Tri Kiến đã thu hút sự ngưỡng vọng của công
chúng, trở thanh trung tâm tâm linh của vùng,
nhờ đó mà thành ngôi chùa cổ nổi tiếng và đồng hành cùng lịch
sử dân tộc hơn 7 thế kỉ qua.
Có thể nói, chùa Hoằng Phúc (chùa Kính Thiên, am Tri Kiến) là
di sản của một trung tâm văn hóa tâm linh Phật giáo của Đại Việt
được cộng đồng dân cư mang theo trong quá trình di dân mở cõi
phương Nam thời Lý - Trần,
góp phần giữ gìn bản sắc Đại Việt khi đến vùng đất mới, để an
cư lạc nghiệp.
Đây là di tích được các nhân vật lịch sử của quốc gia phong
kiến (Phật hoàng Trần Nhân Tông, chúa Tiên Nguyễn Hoàng, chúa Nguyễn Phúc Chu,
vua Minh Mạng, vua Thiệu Trị, Tùng Thiện Quận công Nguyễn Phúc Miên Thẩm, vua Tự
Đức…) đã đến, quan tâm trùng tu, phục dựng và chấn hưng
vì mục đích phục vụ cho sự hòa đồng dân tộc trong quá trình mở
cõi,
cố kết cộng đồng trong sinh hoạt văn hóa tâm linh để tạo sức
mạnh từ cố kết lòng dân thông qua đức tin đầy lòng vị tha của đạo Phật.
Là di tích thuộc loại cổ xưa nhất chứa đựng nhiều thông điệp
về lịch sử Phật giáo Đại Việt
thâm nhập vào xứ Đàng Trong theo cộng đồng dân di cư, theo
các nhà tu hành và theo dấu chân kinh lý trên đường thiên lý của các bậc vua
chúa, quan lại mộ đạo Phật.
Vì thế, nơi đây có sức hút của hội nhập, lại vừa có sức lan tỏa
của một trung tâm Phật giáo Đại Việt xứ Đàng Trong.
Chùa
Hoàng Phúc trong Ô châu cận lục, Đương Văn An đã viết:
"Chùa ở gần trạm Bình Giang, huyện
Lệ Thủy, nước biếc uốn quanh, non xanh chầu về. Hẳn nhiên là một ngôi chùa u tịch,
một cõi thần tiên vậy. Nhà cửa, thôn xóm chẳng xa nhưng tuyệt nhiên không nghe
tiếng gà gáy, chó sủa. Thật là một ngôi chùa lớn ở Tân Bình vậy. Chùa có đại hồng
chung nặng nghìn cân, có tăng quan và người quét dọn, bốn mùa phụng thờ. Nay
hoa rụng, chim kêu, chỉ còn trơ lại nền mà thôi".
Chùa Trạm là niềm tự hào cho làng
Phường Thuận Trạch!
2
Chùa
Quan là nơi tụ họp của Làng, sau này là của hợp tác xã.
Bây
giờ gọi là địa chỉ văn hóa.
Nhưng
sân chùa vui hơn nhiều
Chỉ
thấy người lớn vui , trẻ con nô đùa.
Mặt
mấy ông sư hiền khô vui vẻ.
Không
như mặt mấy lão chủ nhiệm, bí thư xóm lúc nào cũng quàu quạu.
Chữ
nghĩa thì i tờ mà tổ chức họp xã viên liên miên.
Mỗi
lần chủ nhiệm, bí thư lên nói tràng giang đại hải chẳng được tích sự gì làm bà
con ngù gật.
Sáng
không còn sức đi cấy, đi cày!
*
Chùa
đối với trẻ thơ vui lắm.
Đêm
nào trẻ con cũng tụ tập ở sân chùa chơi “bùng chết” – một trò chơi của trẻ
làng, ai cũng rất thích.
Có
khi mải chơi đến trăng lặn còn chưa về.
*
Hồi
máy bay chưa đánh phá miền Bắc, chùa đẹp lung linh.
Chùa
có nhà giữa, hai nhà ngang thờ đầy phật.
Hai
bên chùa có hai ao sen, mùa hạ đầy sen đẹp nở.
Chùa
có hai cổng Tam quan bề thế.
Nay
vẫn còn giữ lại được một cổng bên phải làm kỷ niệm (ngoài chùa đi vào)
Nhà
chùa giữa đầy tượng phật. Chính giữa có ông phật mới sinh ba ngày nhảy qua sông
lớn, rông bốn phía đến chầu.
Hai
dãy chùa ngang hai bên có ông Thiện, ông Ác, ông Nhịn ăn, ông Nhịn mặc, có nhiều
bức tranh tả cảnh Thiên đình, Đại ngục.
Ai
sống tu thân tích đức thì sẽ lên Thiên đình, ai sống gian ác thì sẽ về Địa ngục!
Chùa
trồng nhiều cây ăn quá
Nổi
lên giữa sân chùa là những cây xoài cổ thụ.
Quả
không sai nhưng ăn rất ngọt.
Được
ông sư cho một quả là mừng hết nậy (9)
Đúng
là đất vua, chùa làng.
*
Chùa
Quan linh thiêng như thế nhưng cũng không thoát khỏi bom đạn giặc Mỹ.
Năm
sáu tư (1964) máy bay Mỹ ra bắn phá miền Bắc, chúng rêu rao không bắn phá đền
chùa miếu mạo, nhà thơ.
Chúng
nói mồm chúng vậy, giống như mấy lão mỏ đóm, nói một đằng làm một nẻo.
Khoảng
năm Sáu Sáu (1966) làng ta không còn một mái chùa, nghè, miệu nào.
Hễ
nhìn xuống thấy chỗ nào có nhà ngói là máy bay bỏ bom.
Làng
có hơn hai chục nghè, miệu.
Như
nghè Tam Tòa ngoài ruộng của Mẹ gần Làng
Dương, Dương Thủy,
Nghè
Tu Huýt
Nghè
Mỹ Sơn
Nghe
Ngã Ba…
Thôn
nào cũng có miệu…
Tất
cả không còn một viên ngói.
Chùa
Quan bom chà đi, xát lại, tường gạch đổ xiêu, cột nhà chùa bằng mít to người ôm
không xuể, đứng trơ vơ giữa trời dầm mưa, dải nắng…
Các
tượng Phật bị hơi bom hắt lên trời.
Các
sư sãi cũng phải chạy nấp hầm tránh bom…
Mô
Phật!
Tôi
có 100 bài thơ tứ tuyệt vịnh Chùa Quan!
3
Ngày
mồng 3 tháng 9 năm 1959, sau Quốc Khánh một ngày, chị Qua (Đỗ Thi Khiếc) hy
sinh trong lúc bắn mình phá đá mở đường 559 tại Vít Thù Lù tận biên gới Việt -
Lào
(Điểm
này con đã hành quân qua và bị sốt rét nằm lại.
Đường chiến lược này khởi nguồn tại ngã ba Thạch
Bàn, huyện Lệ Thủ , Quảng Bình đi sâu vào Nam.)
Mẹ
đã gửi chị vào Chùa Quan.
Con
nhớ các thầy tu tụng kinh đến ba ngày ba đêm mong cho linh hồn chị siêu thoát.
3
Con
gái làng tôi nổi tiếng đẹp trong huyện Lệ Thủy.
Có
một bà hoàng của vua Tự Đức là người làng Phường được thờ trong lăng Tự Đức.
Hình
như con gái của vùng vừa buôn bán, vừa làm nông kết hợp được nét thuần phác,
nét linh lợi nên người đẹp vừa nền nã vừa nhanh nhẹn thông minh đủ sức chèo chống
trước sống gió cuộc đời!
Con
gái của Cụ Ngô Đình Nhu đặt tên là Ngô Đình Lệ Thủy chắc là có chút tự hào về
quê hương.
Mẹ
cũng là người đẹp
Mẹ
như chị Lới, chị Giạn, chị Huệ, o Thí, cái Dung, chị Mọt, chị Điu, Bỗng, Bảnh,
Truc, Thón, Khiếc, Chình…
Một
giàn trung nữ tuyệt xinh của họ Hoàng, làm các anh bộ đội đóng quân trên doanh
trại trung đoàn 66 mê mẩn!
Nhưng
Mẹ hay ngậm ngùi than thở:
Con
gái họ Hoàng phận bạc, tình duyên dang dở, gia thất chia lìa.
4
Mẹ,
thời con gái có dáng thon thả nền nã, da trắng, mặt trái xoan sống mũi cao , thẳng
nhưng không nhọn, hao hao giống phụ nữ châu Âu .
Tình
tình thẳng thắn, nóng nảy, cương trực
như đàn ông
Lại
có học.
Ông
ngoai cho học đến tốt nghiệp Yếu Lược thời Tây.
Con
học tiếng Pháp với Mẹ nói và viết được nhiều chữ hơn học ba năm tiếng Pháp đại
học sau này!
Mỗi
lần bắt gặp bà Tây ngoài đời hoặc trong phim ảnh, con giật mình tưởng như là Mẹ hiện về!
Cái
nét đẹp tuyệt vời này con không thừa hưởng được.
Con
lại giống Ba khuôn mặt chữ điền.
Mũi
dài nhọn nhưng hơi lõm.
Về
già trông thô ráp.
Mặt
chữ điền không có tiền trong túi!
Con
gái làng giễu vậy!
Mẹ
có hình thức như thế nên nên dù “mạ nghé” (3), chị Qua (4) lên 7 tuổi rồi mà ông Hoãn trai tân hoạt động
Cách mạng cùng Mẹ vẫn yêu say đắm, tận tụy cầu xin lấy làm vợ!
Việc
ấy thực hi hữu xảy ra trong một thời mà Nho giáo đang ngự trị đời sống tinh thần,
vật chất của nhân quần!
*
Mẹ
hát rất hay
Mẹ
hò cũng rất hay
Hò
bắt miệng rất giỏi (7)
Mẹ
say tình giã gạo thâu đêm
Giã
hết thóc bỏ trú (trấu) vào giã.
Con
không có giọng hát, giọng hò như Mẹ.
Mẹ
thường chê
Giọng
mày thua giọng thằng Lực (9)
Giọng
nó choong voong
Giọng
mày tức tức giống Ba mày không đơn ca được.
5
Con
không học được Mẹ tính tập thể, tổ chức.
Đi
dân nhớ, ở dân thương!
Mẹ
thường mắng: “Mày là đứa đập không đi, hò không đứng”
Con
thường hay khích bác người ta.
Từ
thuở nhà Trần mở mang bờ cõi, có làng Phường, làng Phường có nhiều lần bị đói.
Những
năm mất mùa giêng hai thiếu thốn mọi người lại chạy lên cồn, lên rẫy vỡ đất trồng
khoai, trồng sắn.
Con
gải nhà bị đói phải bán gã cho Cà lơ (6)
Nhà
ông Gianh trong làng người nào cũng cao như Tây nhưng lại thường bị đói sớm nhất.
Em
gái ông Gianh phải lấy Cà lơ.
Mỗi
lần ả về thăm làng cả bọn trẻ chũng tôi đi xem như xem người ngoài hành tinh về
trái đất.
Ông
chồng ả già đen như khúc gỗ mun, miệng lúc nào cũng ngâm ống điều (tẩu) phì
phèo khói thuốc bay đầy xung quanh.
Còn
ả thì mặc váy như các mụ thiểu số Cà lơ, chứ không mặc quần như gái làng.
Mẹ
tôi nói:
Năm
đói nhà ông Gianh phải bán gã cho Cà lơ để lấy khoai sắn ăn cứu đói.
Cái
đói năm 1945 rùng rợn lắm.
Mẹ
tôi thường nhắc lại một nỗi kinh hoàng đến giờ còn run.
Mẹ
kể:
Nhà
ông ngoại ở sát chợ Phiên, người đói từ các miền dạt về không đếm hết.
Kẻ
nối (đội) bàn thờ, hương đèn, người kéo chó, dắt con lển nga, lễn nghễn, áo quần
tơi tớp đi thâu đêm suốt sáng.
Mẹ
ngồi ở cửa số cho hết xâu tiền này hết xâu tiền khác cho người đói qua đường.
Giữa
chợ Phiên người đói nằm la liệt
Rồi
thì chết dần chết mòn hết
Làng
phải cứ đám mần xâu nấu nước khiêng đi chôn.
Có
cô gái độ mười tám đôi mươi sống lay lắt lâu nhất
Mấy
tuần sau mới chết!
Suốt
đời Mẹ nhắc nhở con cái
“Gắng
chăm làm đừng để chết đói như năm 1945
Thương
tâm lắm!”
*
(Còn
nữa)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét