ĐỖ HOÀNG LẠI DỊCH THƠ VIỆT RA
THƠ VIỆT
Đỗ Hoàng
Thứ ba ngày 9 tháng 3
năm 2010 11:15 AM
Bài “ Lịch sử một tấm thảm
Thổ Nhỹ Kỳ”
Của Nguyễn Quang Thiều
Người viết cứ viết ra theo sự suy nghĩ chủ quan của mình. Sau đó người ta phân
và chia ra làm nhiều thể loại như: Văn, thơ, phú, tế, kịch, hịch, ca dao, tục
ngữ, vè, nói lối, hát vui chơi, nói vui chơi…
Thời hiện đại các
tác giả cũng có nhiều cách viết, cách nói, cách lập ngôn nhưng chưa thấy các
nhà phê bình phần loại thể. Tôi đã có nhiều lần đề nghị với tư cách cá nhân khi
thấy nhiều người viết ra nhiều kiểu lạ mắt lạ tai, thấy thơ cũng không phải
thơ, văn cũng không phải văn, dịch cũng không phải dịch, truyền thống cũng
không phải truyền thống. Người trẻ cũng có, người già cũng có. Tộc người đa số
cũng có, tộc người thiểu số cũng có. Các kiểu viết ấy với cái tên phân thể loại
là “Vô lối”. Từ “Vô lối” cũng đủ giải nghĩa các kiểu viết trên. Đại biểu cho
kiểu “Vô lôi” này là Thanh Tâm Tuyền, Lê Văn Ngăn, Văn Cầm Hải, Vi Thuỳ Linh,
Phú Trạm Inrasara, Nguyễn Quang Thiều, Nguyễn Bình Phương, Phan Thị Vàng Anh,
Phan Huyền Thư, Phạm Vân Anh, Hoàng Vũ Thuật…
Xin dịch bài “Vô
lối”
- Lịch sử một tấm thảm Thổ
Nhĩ Kỳ
Tác giả Nguyễn Quang Thiều
“Tấm thảm Thổ thăng trầm
thiên biến,
Hướng dẫn viên dẫn chuyện
rõ ràng:
- Thảm này dệt sợi dọc
ngang,
Một bà người Thổ tay vàng
làm ra.
Người mua lại một ông già,
Da đen quốc tịch Cu Ba
rạch ròi.
Ở Ha va na hẳn hoi.
Vào năm tám sáu cũng thời
mới đây.
Chủ nhân nói: - Tấm thảm
này,
Quà con trai tặng cho thầy
u thương!
Hai mốt năm treo trên
tường.
Cỏ cây nuông thù lạ thường
hiển linh (1)
Sớm khuya vang vọng quanh
mình,
Tiếng cây, tiếng suối thập
thình đâu đây.
Tiếng nai gọi bạn hao gầy,
Mùa sinh sôi giục đàn bầy
đến nhanh.
Chủ nhân tám bảy xuân
xanh.
Sáng xơi trà nguội đã
thành thói quen.
Những con nai đực khát
thèm,
Nhưng nhà đóng cửa cài
then chặt rồi.
Bà già năm lượt đi ngoài,
Lưng còng chân yếu kêu lời
xót đau.
Thảm không dịch chuyển đi
đâu,
Hai mốt năm vẫn gắn đầu
chỗ treo.
Ông năm mươi tuổi dáng
nghèo,
Trở về thường đứng vai đeo
túi hờ.
Ngôi nhà tối sáng mập mờ,
Tràn lên tấm thảm tiếng hô
hoán đầy.
Phía sau tấm thảm ai hay?
Lưỡi dao sắc lạnh đợi ngày
bén xơi.
Một cái chảo sùng sục sôi,
Hướng dẫn viên: - Bà Thổ
quả thiệt thòi tấm thân.
Mù loà liệt cả tay chân.
Người mua lại kể ngọn
ngành xảy ra.
Ông già da đen Cu Ba,
Khốn cùng tự vẫn thế là đi
tong.
Chủ nhân bày tỏ thật lòng:
- Nhớ con trai gương mặt
hồng như hoa.
Chính lúc tấm thảm mở ra,
Một người lạnh cóng như là
chết khô
Đứng nhìn tấm thảm trống
trơ,
Hai chân đông cứng lặng tờ
máu tươi.
Hướng dẫn viên bỏ nghề
rồi.
Người mua quên bẵng một
thời mình mua.
Chủ nhân: - Tôi bạn
khiếp chưa?
Người thân chết cháy chẳng
lưa thứ gì,
Gốc cây trong thảm thâm
sì.
Bây giờ là đúng năm nhì ai
ơi!
(1) Người dệt thảm tài hoa
dệt cây cỏ muông thú trong thảm bỗng chốc trở thành những sinh linh sống động
như ở ngoài đời!
Hà Nội, ngày 7 – 3 – 2010
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét