Thứ Bảy, 17 tháng 4, 2021

SÓNG VÀ KHOẢNG LẶNG, TẬP VÔ LỐI CỦA TỪ QUỐC HOÀI PHẢN THƠ CA

 


SÓNG VÀ KHOẢNG LẶNG, TẬP VÔ LỐI CỦA TỪ QUỐC HOÀI PHẢN THƠ CA

Sáng tác bạn bèTrackbacks (0)góp ý (3)   

Đỗ Hoàng


      Tôi cầm lên đặt xuống tập sách Sóng và Khoảng lặng  của Từ Quốc Hoài không biết bao nhiêu lần, định viết vài nhời, nhưng rồi tự nhủ: “Hơi sức đâu mà đi mua tiếng chưởi vào mình! Bao nhiêu người tài danh họ im lặng để “dĩ hòa vi quý”, mình cứ ngứa mồm chẳng được cái gì. Ở đời thì trăng cứ sáng, chó cứ sủa người cứ đi, đã làm sao đâu!

     Tập thơ Sóng và Khoảng lặng của Từ Quốc Hoài và 3 tập thơ của 3 tác giả khác Mai Văn Phấn, Đỗ Doàn Phương, Đinh Thị Như Thúy) được giải thưởng Hội  Nhà văn hai năm ((2010 – 2011). Các báo chí chính thống, trang mạng chính thống rầm rộ in thơ của tác giả đạt giải thưởng Hội Nhà văn Việt Nam nên làm mọi người trong đó có tôi chú ý, tìm đọc.

    Chẳng phải tìm đâu xa, các  báo chí chính thống như: Tạp chí Nhà văn, Tạp chí Thơ, báo Văn nghệ, nhất là báo Văn nghệ còn dành một trang để khen hết lời “ Nhà thơ Từ Quốc Hoài với những cột mốc văn chương”.  Ảnh Từ Quốc Hoài ôm bó hoa, comle, cà vạt như chú rể trong đám cưới. Thật là  “Ông mang cái vẻ bên ngoài để che đậy cái sơ sài bên trong” (Tú Mỡ) 

  Tôi đọc lướt qua tập Sóng và Khoảng lặng, thất vọng với cách viết của Từ Quốc Hoài. Đó là ý cá nhân của tôi.  Tôi chọn bài Người làm vườn in và sau đó “dịch” bài này ra thơ Việt bằng cả hai cách, một lục bát, một năm chữ in trên vannghecuocsong.com  dohoang.com để người đọc họa may còn đọc được và hiểu được. Kẻm theo hai bài dịch là bài văn tả cảnh Vườn nhà em của một em học sinh lớp 6 tận xứ núi Plei ku. Và so sánh bài vô lối Người làm vườn  của Từ Quốc Hoài và bài văn tả cảnh Vườn nhà em của em học sinh lớp 6 và bình bài vô lối của Từ Quốc Hoài dở hơn nhiều lần bài văn của học sinh lớp 6 xứ núi Pleiku.


     
  Ngày nào đi làm tôi cũng kè kè cuốn Sóng và Khoảng lặng trong cặp, thấy ngứa ngáy, lộm cộm, khó chịu vô cùng. Dỡ ra đọc lại có cảm giác như gặm phải đá sỏi hoặc như đi giữa đường vấp phải đinh sắt mà bọn du thủ, du thực rải đinh để bẩy xe ô tô, xe máy bây giờ. Tâm trạng chẳng khác gì nhà thơ Hải Bằng vịnh hai ông nhà thơ, nhạc sỹ vườn thời thập kỷ 70 thế kỷ trước được báo chí chính thông lăng xê:

“Hoan hô nhà thơ Văn Zin,

Bỗng đâu bắt gặp cái đinh giữa đường.

Hoan hô nhạc sỹ Minh Zương

Bỗng đâu bắt gặp giữa đường cái đinh!”


   Vấp tập Sóng và Khoảng lặng, tôi cũng như vấp phải đá sỏi và đống đinh trên đường vậy!


         *

     Tập Sóng và Khoảng lặng được Nhà xuất bản Văn học cấp giấy phép ở Chi nhánh phía Nam, in xong và nộp lưu chiểu tháng 4 năm 2010.

      Tập có 41 bài, đa số viết ngắn, ít có bài dài quá 3 trang. Đây là tập toàn tòng vô lối, xa lạ với cách viết, cách nghĩ, cách cảm truyền thống của dân tộc và của nhân loại. Thật sự nó phản lại thơ ca! Không có một bài nào gọi là thơ, không có một đoạn nào gọi là thơ, thậm chí không có một câu nào gọi là thơ!


  Một cách làm xiếc chữ không ra xiếc chữ, một cách cố ra vẻ tư duy không ra vẻ tư duy. Cách lập ngôn ngô nghê, ông già không ra ông già, trẻ con không ra trẻ con, dở dở ương ương, lởm khà, lởm khởm. Đầy lối nói rởm kiểu cách, phách lối, trẻ con, hết sức nhố nhăng: “Núi níu trời cho mây vẫn vít, trăng tinh tươm rời bồn tắm, trút bỏ áo ngày, bờ sông thiếu nữ, da thịt núi đồi tỏa hương mật, anh gieo hy vọng, anh gieo giấc mơ, gieo vãi trong mùa sinh nở, thăm thẳm bờ sông thiếu nữ, anh lạc vào nụ cười tươi xanh, vết thương ngày cũ, cánh đồng sợ hãi, những bước chân của gió những cánh đồng thu dọn mùa màng, tôi gửi ngọn gió nồm cho da thịt em mát rượi, bao Đức Ông tươi tốt, nhồm nhoàm nhai bạc tiền, anh bày biện thêm nụ cười, gió dạo chơi ngày mới, tĩnh lặng mặt nắng đầy, bao vẻ đẹp sây sướt, nghe con sóng tẩy xóa bóng chiều,…
      Kể làm sao cho hết kiểu nói ngô nghê tuổi lên chín, lên mười này!

      Những triết lý rẻ tiền: Đồng tiền là vách ngăn, lẽ nào chúng ta bi quan, hạnh phúc trong tầm tay hay đã xa vời, trời ơi, một thế giới ô nhiễm đến tận giường nằm, gió như không là gió trên đời, khẻ chạm tay vào nắng, nắng rất thật, giấc mơ cuối chân trời luôn biến ảo, chết một cách gọi khác của sự sống…

        Đề tài tình yêu, tình bạn, tình quê dễ xúc động lòng người nhất mà đọc Từ Quốc Hoài ta có cảm giác như đi trên đống xi măng, vôi vữa đá tảng, mẻ chai.

      Viết về gia đình vợ con như ở trong trại tế bần đói khổ nheo nhóc, nhẫn tâm, vô cảm, coi tình cảm vợ chồng như mớ cá, mở tôm ngoài chợ đem bày bán:

“bên gương mặt bình lặng của người vợ hiền

và ánh mắt háu đói

của con trẻ

bữa cơm tối nghi ngút

anh bày biện thêm nụ cười…”

(Trữ tình)

       Tình cảm gia đình của Từ Quốc Hoài xa lạ một trời một vực với tình cảm của người lính Nga trên đất Đức khi nhớ về quê hương, gia đình, vợ con:

  “Đất không phải đất quê mình,

Cánh đồng sẫm nước êm lành bao la,

Hương mùa dìu dịu bay qua,

Có gì thân đến sâu xa trạnh lòng.

Ô hay là trận lũ ròng

Trải bình dị thế qua đồng, qua khe

Lăn tăn màu cỏ non kia

Có gì đâu khác bên quê xứ mình

Tưởng trong giấy phút thình lình

Chưa hề có cuộc chiến tranh qua rồi.

Chưa bao cách trở xa xôi

Chưa bao nguy hiểm đứng ngồi không yên

Vợ mình hẳn đã già thêm

Con mình độ ấy lớn lên bao rồi?

Mình qua cả cuộc đổi đời

Hương mùa xuân mãi bồi hồi nỗi chi!

(Trên đất Đức, thơ Nga – Bằng Việt dịch)

   Từ Quốc Hoài viết về bạn bè cũng một tông khô khan, đại hạn, vô tình , vô cảm như vậy:
Không khi loãng

dấu chân gió bôi xóa

anh mặc áo, cài cúc thật kỹ đi giữa những lâu đài

bao người nhìn ngắm!

anh nhìn vào những là cờ mỉm cười

(Thơ viết cho một người)

      Anh có những người bạn thân bị hoạn nạn, bị đời ruồng bỏ, bị thế gian muốn giết chết. Đáng ra phải đồng cảm thương đau, xa xót cùng bạn hay ít đi nữa thì có chút sẻ chia nỗi rủi ro bất hạnh mà bạn vướng phải. Đằng này tác giả chỉ nói đâu đâu, mây gió, công viên, hết sức nhạt nhẽo, lạnh lùng, băng giá:

“những công viên nhiều màu

đâu đâu cũng nhiều màu

bức tranh kia không ngừng biến đổ

hạnh phúc trong tầm tay

hay đã xa vời?

cuộc đời như ngọn gió

anh hít thở và cảm nhận

cuộc đời luôn là một kho báu

đầy bí ẩn…”

(Thơ viết cho một người – đã dẫn)

         Cách đây gần hai nghìn năm Đỗ Phủ đã viết bài thơ Bất kiến về Lý Bạch người bạn vong niên của mình bắng một tình cảm chứa chan, tấm lòng đồng điệu, cảm thương tột độ nỗi đau thương mà bạn phải gánh chịu giữa cuộc đời đảo điên, ô trọc. Đến nay đọc vẫn ngậm ngùi xúc động, xót đau cho một tài năng lớn bị dập vùi:

“Bất kiến Lý sinh cửu

Dương cuồng chân khả ai

Thế gian giai dục sát

Ngô độc ý liên tài

Mẫn tiệp thiên thi thủ

Phiêu linh nhất tửu bôi

Khuông sơn độc thư xứ

Đầu bạch hảo quy lai!

LÂU KHÔNG GẶP NHAU

Lâu không gặp Lý Bạch

Giả điên thật thương thay

Người đều muốn giết

Riêng chỉ ta thương tài

Thông minh nghìn thi tứ

Lưu lạc chén mềm môi

Núi Khuông còn sách đọc

Đầu bạc nên về thôi!

(Đỗ Hoàng dịch)

       Quê hương là nới chôn rau, cắt rốn, chỉ nói một tiếng quê ơi đã rung động lòng người, thế mà Từ Quốc Hoài chơi cả một bài Quê nhà mà không may may động lòng:

“Dưới bầu trời thăm thẳm

núi đồi lặng lẽ thở

lặn trong đáy mắt

những mùa xuân làm đảo lộn đời người

anh lẩm đẩm lớn

bên những tờ bạc cũ nhàu

cát bụi có gương mặt của cát bụi

anh luôn ngạc nhiên với gương mặt mình…

      Bài Quê nhà có 16 câu mà đến câu thứ 8 rồi người đọc chẳng thấy quê nhà, tình cảm yêu thương của tác giả ở đâu.

   Ít ra thì phải có chút tình quê như trong bài thơ Quê hương của Đỗ Trung Quân:

“Quê hương nếu ai không nhớ

  Sẽ không lớn nỗi thành người”

 Đấy là chưa so với thơ về Quê hương của Chế Lan Viên:

“Những bộ áo quần rằn ri,

Những tâm hồn vằn vện

Chúng xáo trộn quê ta như xóc một ván bài

Bao tên tỉnh, tên huyện, tên làng đều thay đổi…”

Hay:
Cố viên đông vọng lộ man man

Song tụ long chung lệ bất can

Mã thượng tương phùng vô chỉ bút

Bằng quân truyền ngữ báo bình an!

Quê nhà xa tít ngoái trông sang

Áo thỏng hai tay lệ chảy tràn

Trên ngựa gặp nhau không giấy bút

Nhờ anh nhắn hộ vẫn bình an!

(Dịch – KD)

 (Phùng nhập kinh sứ – Sầm Than – đời Đường)

Ngoài ra trong tập Sóng và Khoảng lặng có nhiều bài Nhật ký, Tự sự kiểu cách, rối rắm, vô thưởng, vô phạt, hoặc  tù mù đánh lừa người đọc:

“Bên ngoài cửa sổ

sóng biển quẫy đập đêm ngày

như lớp lớp

ký ức

không chịu nhắm mắt (Tự sự 7)

Hay:
Chúng ta nhẫn nhịn

ngày này qua ngày khác chung sống

riết rồi quen

đặt lên bục

tôn vinh

những thứ có trời mà biết (Tự sự 2)

   Tập vô lối toàn tòng Sóng và Khoảng lặng của Từ Quốc Hoài đúng như tuyên ngôn của ông: Có trời mà biết! Có trời mới cảm được!

                                                                  Hà Nội, ngày 12 tháng 7 năm 2012

                                                                                                                                                                          Đỗ Hoàng

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét