SÓNG
VÀ KHOẢNG LẶNG, TẬP VÔ LỐI CỦA TỪ QUỐC HOÀI PHẢN THƠ CA
Sáng tác bạn bèTrackbacks (0)góp ý (3)
Đỗ Hoàng
Tôi cầm lên đặt xuống tập sách Sóng và Khoảng lặng của Từ Quốc Hoài
không biết bao nhiêu lần, định viết vài nhời, nhưng rồi tự nhủ: “Hơi sức đâu mà
đi mua tiếng chưởi vào mình! Bao nhiêu người tài danh họ im lặng để “dĩ hòa vi
quý”, mình cứ ngứa mồm chẳng được cái gì. Ở đời thì trăng cứ sáng, chó cứ sủa
người cứ đi, đã làm sao đâu!
Tập thơ Sóng và Khoảng lặng của Từ Quốc Hoài và 3 tập thơ của 3 tác
giả khác Mai Văn Phấn, Đỗ Doàn Phương, Đinh Thị Như Thúy) được giải thưởng
Hội Nhà văn hai năm ((2010 – 2011). Các báo chí chính thống, trang mạng
chính thống rầm rộ in thơ của tác giả đạt giải thưởng Hội Nhà văn Việt Nam nên
làm mọi người trong đó có tôi chú ý, tìm đọc.
Chẳng
phải tìm đâu xa, các báo chí chính thống như: Tạp chí Nhà văn, Tạp chí
Thơ, báo Văn nghệ, nhất là báo Văn nghệ còn dành một trang để khen hết lời “
Nhà thơ Từ Quốc Hoài với những cột mốc văn chương”. Ảnh Từ Quốc Hoài ôm
bó hoa, comle, cà vạt như chú rể trong đám cưới. Thật là “Ông mang cái vẻ
bên ngoài để che đậy cái sơ sài bên trong” (Tú Mỡ)
Tôi đọc lướt qua tập
Sóng và Khoảng lặng, thất vọng với cách viết của Từ Quốc Hoài. Đó là ý cá
nhân của tôi. Tôi chọn bài Người làm vườn in và sau đó “dịch” bài này ra
thơ Việt bằng cả hai cách, một lục bát, một năm chữ in trên vannghecuocsong.com và dohoang.com để người đọc họa may còn đọc được và
hiểu được. Kẻm theo hai bài dịch là bài văn tả cảnh Vườn nhà em của một em học
sinh lớp 6 tận xứ núi Plei ku. Và so sánh bài vô lối Người làm vườn của
Từ Quốc Hoài và bài văn tả cảnh Vườn nhà em của em học sinh lớp 6 và bình bài
vô lối của Từ Quốc Hoài dở hơn nhiều lần bài văn của học sinh lớp 6 xứ núi
Pleiku.
Ngày nào đi làm tôi cũng
kè kè cuốn Sóng và Khoảng lặng trong cặp, thấy ngứa ngáy, lộm cộm, khó
chịu vô cùng. Dỡ ra đọc lại có cảm giác như gặm phải đá sỏi hoặc như đi giữa
đường vấp phải đinh sắt mà bọn du thủ, du thực rải đinh để bẩy xe ô tô, xe máy
bây giờ. Tâm trạng chẳng khác gì nhà thơ Hải Bằng vịnh hai ông nhà thơ, nhạc sỹ
vườn thời thập kỷ 70 thế kỷ trước được báo chí chính thông lăng xê:
“Hoan hô nhà thơ Văn Zin,
Bỗng đâu bắt gặp cái đinh
giữa đường.
Hoan hô nhạc sỹ Minh Zương
Bỗng đâu bắt gặp giữa
đường cái đinh!”
Vấp tập Sóng và Khoảng lặng, tôi cũng như vấp phải đá sỏi và đống
đinh trên đường vậy!
*
Tập Sóng và Khoảng
lặng được Nhà xuất bản Văn học cấp giấy phép ở Chi nhánh phía Nam, in xong và
nộp lưu chiểu tháng 4 năm 2010.
Tập có 41 bài, đa số viết ngắn, ít có bài dài quá 3 trang. Đây là tập toàn tòng
vô lối, xa lạ với cách viết, cách nghĩ, cách cảm truyền thống của dân tộc và
của nhân loại. Thật sự nó phản lại thơ ca! Không có một bài nào gọi là thơ,
không có một đoạn nào gọi là thơ, thậm chí không có một câu nào gọi là thơ!
Một cách làm xiếc chữ không ra xiếc chữ, một cách cố ra vẻ tư duy không
ra vẻ tư duy. Cách lập ngôn ngô nghê, ông già không ra ông già, trẻ con không
ra trẻ con, dở dở ương ương, lởm khà, lởm khởm. Đầy lối nói rởm kiểu cách,
phách lối, trẻ con, hết sức nhố nhăng: “Núi
níu trời cho mây vẫn vít, trăng tinh tươm rời bồn tắm, trút bỏ áo ngày, bờ sông
thiếu nữ, da thịt núi đồi tỏa hương mật, anh gieo hy vọng, anh gieo giấc mơ,
gieo vãi trong mùa sinh nở, thăm thẳm bờ sông thiếu nữ, anh lạc vào nụ cười
tươi xanh, vết thương ngày cũ, cánh đồng sợ hãi, những bước chân của gió những
cánh đồng thu dọn mùa màng, tôi gửi ngọn gió nồm cho da thịt em mát rượi, bao
Đức Ông tươi tốt, nhồm nhoàm nhai bạc tiền, anh bày biện thêm nụ cười, gió dạo
chơi ngày mới, tĩnh lặng mặt nắng đầy, bao vẻ đẹp sây sướt, nghe con sóng tẩy
xóa bóng chiều,…
Kể làm sao cho hết kiểu nói ngô nghê tuổi lên
chín, lên mười này!
Những triết lý rẻ tiền: Đồng tiền là vách ngăn, lẽ nào chúng
ta bi quan, hạnh phúc trong tầm tay hay đã xa vời, trời ơi, một thế giới ô
nhiễm đến tận giường nằm, gió như không là gió trên đời, khẻ chạm tay vào nắng,
nắng rất thật, giấc mơ cuối chân trời luôn biến ảo, chết một cách gọi khác của
sự sống…
Đề tài tình yêu, tình bạn, tình quê dễ xúc động lòng người nhất mà
đọc Từ Quốc Hoài ta có cảm giác như đi trên đống xi măng, vôi vữa đá tảng, mẻ
chai.
Viết về gia đình vợ con như ở trong trại tế bần đói khổ nheo nhóc, nhẫn tâm, vô
cảm, coi tình cảm vợ chồng như mớ cá, mở tôm ngoài chợ đem bày bán:
“bên gương mặt bình lặng
của người vợ hiền
và ánh mắt háu đói
của con trẻ
bữa cơm tối nghi ngút
anh bày
biện thêm nụ cười…”
(Trữ tình)
Tình cảm gia đình của Từ Quốc Hoài xa lạ một trời một vực với tình cảm của
người lính Nga trên đất Đức khi nhớ về quê hương, gia đình, vợ con:
“Đất không phải đất
quê mình,
Cánh đồng sẫm nước êm lành
bao la,
Hương mùa dìu dịu bay qua,
Có gì thân đến sâu xa trạnh
lòng.
Ô hay là trận lũ ròng
Trải bình dị thế qua đồng,
qua khe
Lăn tăn màu cỏ non kia
Có gì đâu khác bên quê xứ
mình
Tưởng trong giấy phút
thình lình
Chưa hề có cuộc chiến
tranh qua rồi.
Chưa bao cách trở xa xôi
Chưa bao nguy hiểm đứng
ngồi không yên
Vợ mình hẳn đã già thêm
Con mình độ ấy lớn lên bao
rồi?
Mình qua cả cuộc đổi đời
Hương mùa xuân mãi bồi hồi
nỗi chi!
(Trên đất Đức, thơ Nga –
Bằng Việt dịch)
Từ Quốc Hoài
viết về bạn bè cũng một tông khô khan, đại hạn, vô tình , vô cảm như vậy:
Không khi loãng
dấu chân gió bôi xóa
anh mặc áo, cài cúc thật
kỹ đi giữa những lâu đài
bao người nhìn ngắm!
anh nhìn vào những là cờ
mỉm cười
(Thơ viết cho một người)
Anh có những người bạn thân bị hoạn nạn, bị đời ruồng bỏ, bị thế gian muốn giết
chết. Đáng ra phải đồng cảm thương đau, xa xót cùng bạn hay ít đi nữa thì có
chút sẻ chia nỗi rủi ro bất hạnh mà bạn vướng phải. Đằng này tác giả chỉ nói
đâu đâu, mây gió, công viên, hết sức nhạt nhẽo, lạnh lùng, băng giá:
“những công viên nhiều màu
đâu đâu cũng nhiều màu
bức tranh kia không ngừng
biến đổ
hạnh phúc trong tầm tay
hay đã xa vời?
cuộc đời như ngọn gió
anh hít thở và cảm nhận
cuộc đời luôn là một kho
báu
đầy bí ẩn…”
(Thơ viết cho một người –
đã dẫn)
Cách đây gần hai nghìn năm Đỗ Phủ đã viết bài thơ Bất kiến về Lý Bạch người bạn
vong niên của mình bắng một tình cảm chứa chan, tấm lòng đồng điệu, cảm thương
tột độ nỗi đau thương mà bạn phải gánh chịu giữa cuộc đời đảo điên, ô trọc. Đến
nay đọc vẫn ngậm ngùi xúc động, xót đau cho một tài năng lớn bị dập vùi:
“Bất kiến Lý sinh cửu
Dương cuồng chân khả ai
Thế gian giai dục sát
Ngô độc ý liên tài
Mẫn tiệp thiên thi thủ
Phiêu linh nhất tửu bôi
Khuông sơn độc thư xứ
Đầu bạch hảo quy lai!
LÂU KHÔNG GẶP NHAU
Lâu không gặp Lý Bạch
Giả điên thật thương thay
Người đều muốn giết
Riêng chỉ ta thương tài
Thông minh nghìn thi tứ
Lưu lạc chén mềm môi
Núi Khuông còn sách đọc
Đầu bạc nên về thôi!
(Đỗ Hoàng dịch)
Quê hương là nới chôn rau, cắt rốn, chỉ nói một tiếng quê ơi đã rung động lòng
người, thế mà Từ Quốc Hoài chơi cả một bài Quê nhà mà không may may động lòng:
“Dưới bầu trời thăm thẳm
núi đồi lặng lẽ thở
lặn trong đáy mắt
những mùa xuân làm đảo lộn
đời người
anh lẩm đẩm lớn
bên những tờ bạc cũ nhàu
cát bụi có gương mặt của
cát bụi
anh luôn ngạc nhiên với gương
mặt mình…
Bài Quê nhà có 16 câu mà đến câu thứ 8 rồi người đọc chẳng thấy quê nhà, tình
cảm yêu thương của tác giả ở đâu.
Ít ra thì
phải có chút tình quê như trong bài thơ Quê hương của Đỗ Trung Quân:
“Quê hương nếu ai không
nhớ
Sẽ
không lớn nỗi thành người”
Đấy là chưa so với
thơ về Quê hương của Chế Lan Viên:
“Những bộ áo quần rằn ri,
Những tâm hồn vằn vện
Chúng xáo trộn quê ta như
xóc một ván bài
Bao tên tỉnh, tên huyện,
tên làng đều thay đổi…”
Hay:
Cố viên đông vọng lộ man man
Song tụ long chung lệ bất
can
Mã thượng tương phùng vô
chỉ bút
Bằng quân truyền ngữ báo
bình an!
Quê nhà xa tít ngoái trông
sang
Áo thỏng hai tay lệ chảy
tràn
Trên ngựa gặp nhau không
giấy bút
Nhờ anh nhắn hộ vẫn bình
an!
(Dịch – KD)
(Phùng nhập kinh sứ
– Sầm Than – đời Đường)
Ngoài ra trong tập
Sóng và Khoảng lặng có nhiều bài Nhật ký, Tự sự kiểu cách, rối rắm, vô
thưởng, vô phạt, hoặc tù mù đánh lừa người đọc:
“Bên ngoài cửa sổ
sóng biển quẫy đập đêm
ngày
như lớp lớp
ký ức
không chịu nhắm mắt (Tự sự
7)
Hay:
Chúng ta nhẫn nhịn
ngày này qua ngày khác
chung sống
riết rồi quen
đặt lên bục
tôn vinh
những thứ có trời mà biết
(Tự sự 2)
Tập vô lối toàn tòng Sóng và Khoảng lặng của Từ Quốc Hoài
đúng như tuyên ngôn của ông: Có trời mà biết! Có trời mới cảm được!
Hà Nội, ngày 12 tháng 7 năm 2012
Đỗ Hoàng
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét