ĐAU CHỮ KHÔNG THỂ THÀNH THI SĨ
“Ở GÓC PHỐ TRÀNG THI” CỦA TRÚC THÔNG KHÔNG PHẢI
THƠ
Đỗ Hoàng
Ở Đài Tiếng nói Việt
“Điêu trác tự thị văn chương bệnh
Kỳ hiểm vưu thương khí cốt đa”
(Cổ nhân)
(Đẽo gọt là bệnh của văn chương/Kỳ
quái, tắc tỵ, bí hiểm thì hại đến hồn thơ)
Bài “Ở góc phố Tràng Thi” là một sự
điển hình cho lối thơ tìm tòi đến nỗi phi
thơ ca của Trúc Thông.
Bài này từ cách đặt tựa đề đến lập tứ
chọn từ, chọn ngữ, cách thể hiện đều không có tý gì gọi là thơ (!)
Tựa đề Ở góc phố Tràng Thi là quá rộng,
nó không sát với nội dung bài viết. Vì ở góc phố Trang Thi có bao nhiêu là công
sở, tư sở và cả dân du thử du thực lãng vàng ngày đêm nữa. Mà Thư viện Quốc gia
tác giả đang nói đến thật sự là nằm trung tâm phố Tràng Thi rất đường bệ, rất
khang trang. Trong văn chương đặt tựa đề hay đúng là bài văn đã đạt giá trị
trên 50%. Đặt tựa đề như trên là hỏng 100%.
Tiếp đến hai câu vào bài là hai câu không thơ
và kém từ cách chọn chữ, lập ý. “Học làm sao hết chữ cũ trên đời”. Đúng là học
là sao hết chữ trên đời. Nhưng ai lại gọi chữ cũ. Chữ làm sao cũ được? Trúc
Thông muốn tìm một cách nói cho khác người cho lạ tai, hóa ra lại không khác
người mà lại cũ hơn người. Trúc Thông cố làm mới nhưng nó không mới. Cũng như
người con gái cố làm đẹp mà mình không đẹp thì làm sao làm đẹp được. Bản thân
mình phải đẹp đã chứ!
“Người xấu duyên lặn vào trong
Bao nhiêu người đẹp duyên bong ra
ngoài”
(Ca dao)
Tiếp câu “Sách chồng nên núi”. Câu này lại quá
cũ kỷ, thừa ra. Đương nhiên sách của nhân loại thì chồng cao như núi rồi. Điều
đó là điều hiển nhiên không cần nhà thơ Trúc Thông phát hiện. Trúc Thông đã
không có phát hiện gì ở đây mà lại nói thừa ra. Người ta so với núi là những cái
đau thương, cái giàu sang, cái vui, cái bi thảm
không bao giờ như núi nhưng gần như núi mới tạo ra ấn tượng mạnh, có sức
liên tưởng lan xa:
-
Xương chất cao như núi
-
Xương chất thành núi
-
Máu chảy thành sông!
-
Vàng chất cao như núi
“Xanh như ngọc thời gian ta đã uống”
là một câu nói của nhưng eng, những ả 8x, 9x đong đưa làm duyên làm dáng không
phải lối. Câu viết cho có ảo huyền cho có siêu thực nhưng nó là một câu viết rất
vô duyên!
Tiếp sau là các câu viết vô duyên trơn tuột nối
theo như thế:
“đuổi theo những mốt
tuột bao bậc thầy
muốn nắm tay ta...”
Tác giả lại dùng từ nửa
Anh, nửa Việt: “hotel mười mấy lầu xanh đỏ”. Sao lại viết nguyên từ tiếng Anh hầu theo như vậy? Chữ Việt có kia mà: Lều
nghỉ, nhà nghỉ, từ Hán việt hóa như: Khách sạn có phải dễ đọc, dễ nhớ hơn
không? Ngay cả từ Ô - ten tiếng Pháp thì
cũng có nhiều người Việt biết hơn là từ hotet.
Câu kết là câu rất phản cảm,
nghe nó thô lậu thế nào nhất là nói lái người miền Trung đu nặng: “đu vào bác mấy đời con cháu”. Tìm tòi gì mà quái gỡ như
thế này? Câu nói bộ này trong khẩu ngữ nghe đã chối tai đừng nói đưa nó vào thơ
mà lại làm câu kết.
Nhà thơ Trúc Thông rất cố gắng tìm tòi, tự bứt
phá mình nhưng:
“Thiên nhai vô bờ
Hồi đầu ngưỡng ngạn”
(Chân trời mênh mông
Ngoảnh lại đã gặp bờ)
Và cuối cùng thì:
“Hòn đá bên đường thành bại
Mỉm cười tay trắng đời
trai”
Người ta chỉ nhớ bài thơ lục bát “Bờ sông vẫn
gió” của Trúc Thông và chỉ có nhớ một câu:
“ Bờ sông vẫn gió người
không thấy về”.
Thế cũng đã an ủi lắm rồi!
Hà Nội, ngày 2 – 7 -2014
Đ – H (1)
Bài in trên báo Văn nghệ
tháng 6 năm 2014
(2) Các nhà đau chữ giả vờ
- Dương Tường, Lê Đạt,
Thanh Tùng, Thi Hoàng…
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét