ĐỖ HOÀNG DỊCH CHINH PHỤ NGÂM
Tôi dịch Chinh phụ ngâm xong từ tháng 10 –
2011, định không công bố bản dịch của mình, vì bản dịch của Đoàn Thị Điểm hoặc
Phan Huy Ích là bản dịch quá tuyệt vời. Bản dịch vừa sát nghĩa, vừa tài hoa, đã
Việt hoá một cách tài tình mà có thế khó có bản dịch nào vượt được. Nhưng rồi
nghĩ lại mình dịch để mình hiểu thêm vẻ đẹp của tiếng Việt, rèn luyện vần điệu
khi sáng tác thơ, cung cấp thêm thông tin cho bạn đọc. Điều này tôi nghĩ cũng
chẳng có gì qua mặt tiền nhân. Vậy nên xin post lên để mọi người xem!
Hà Nội ngày 18 – 2 – 2012
Đỗ Hoàng
XI
Ngóng chàng mãi héo hon nào
thấy!
Lưng trời xa biết mấy lá rơi.
Xập xè bầy trĩ từng đôi,
Bên sông mai thắm liền trời
chim bay.
325- Gió đông hết, gió lay mờ
mịt,
Tây phong kia đã bịt đường về,
(146)
Ngóng chàng nào thấy ủ ê,
Trời xa sông vắng tái tê nhạn
rầu. (147)
Miền xa ngái để sầu muôn nỗi,
Gió tây từng cây nối tiếp cây.
330- Thương thay người đến chốn
này,
Trông trời đất, trông núi mây
bộn bề.
Một ngày lên lầu về mấy lượt,
Lớp mây kia thườn thượt mắt
nhìn,
Ngọ Quan nào xứ chiến chinh (148)
335- Gậy thu đất, Phi Trương
Trình cho hay! (149)
Hận không có tiêu bày khăn lạ
(150)
Chỉ tấm lòng hoa đá cũng nên,
Lên lầu nước mắt cạn thêm (151)
Quay trông dương liễu một miền
xa xanh.
340- Phong hầu ấy, công danh ảo
tưởng (152)
Núi sông này nghìn trượng xa
xôi,
Lòng chàng, ý thiếp chung lời,
Lòng này rực rỡ rạng ngời cánh
dương. (153)
Chỉ sợ chàng ánh Vương cao cả,
(154)
345- Đoái chi loài cỏ rả hoa
này.
Hoa dù rực rỡ cao dày,
Hoa tươi nhờ được có ngày cậy
trông. (155)
Dù ánh dương dẫu không soi rọi,
(156)
Bông hoa này vẫn dõi ánh Vương.
350- Hoa dù tơi tả bên tường,
Tàn phai vẫn gửi đêm sương tỏ
bày!
XII
Nhánh lan trước sân này đã bẻ,
Ngọn tần kia thơm khẻ đưa hương.
Trước nhà khăn áo lược gương,
355- Ngước xem trời đất khác
thường sao băng.
Chút sáng tối Ngân giang mờ tỏ
(157)
Lối sao Khuê khi có, khi không. (158)
Mây kia đậm nhạt mơ mòng,
Để cho Bắc Đẩu lộn vòng Bắc
360- Trăng sáng chiếu, thiếp
màng gì sáng,
Ngọn gió kia bãng lãng thiếp
buồn.
Âu sầu mặt ngọc lệ tuôn,
Anh hùng lưu lạc cuối đường
xa xăm. (160)
Nhớ khi xưa hình tằm, bóng kén
(161)
365- Bây giờ sầu cách biển trời
thương.
Chàng giong ngựa dõi dặm trường,
Dấu xưa, lầu cũ thiếp thường
dạo qua.
Gió xuân về hiên nhà đã hết,
Thương thay cho đẹp tiết lỡ rồi.
370- Cành Diên, đoá Nguỵ vàng
phơi (162)
Ngưu Lang, Chức Nữ tái hồi mấy
khi (163)
Hội trăng sáng có thì chẳng tới,
Thật uổng thay vời vợi phòng
không.
Tiết trời làm nỡ chạnh lòng.
375- Xuân xanh thoáng chốc,
ngó trông đời tàn.(164)
Buồn xuân hết, thu tan càng hận,
Một vui này, mười bận buồn thương.
(165)
Sầu xa, nỗi hận đôi đường.
Mấy kỳ thuỳ liễu khác thường
tươi xanh.
380- Chỉ sợ Trác Văn Quân đầu
bạc (166)
Lo mặt hoa xơ xác Phan Lang (167)
Buồn cho nhan sắc, hương tàn
Hoa thôi chớm nụ, xuân sang nửa
chừng.
Hối quan âm gieo đừng phó thác,
385- Khóc tuổi hoa mệnh bạc
buồn thay
Xuân xanh mới đó những ngày,
Ngoảnh nhìn thoáng chốc hôm
nay da mồi.(168)
Gác thơm đó nào tươi vẻ mặt,
Loài hoa kia cũng tắt làn hương.
390- Giận trời chia rẽ đôi phương,
Vì chàng, vì thiếp khóc thương
than này!
XIII
Chàng chẳng thấy uyên bay ngoài
nội (169)
Từng đôi, ai chia nổi lòng yêu.
Thấy không đôi yến dáng kiều
395- Bạc đầu mà vẫn dập dìu bên
nhau!
Loài sâu cỏ trước sau chung
thuỷ
Vật vô tri tình ý trung thành,
Liễu đường nguyện mãi liền cành
(170)
Sen ao trong ngọc để dành tình
chung! (171)
400- Sao người lại muôn trùng
cách trở?
Ta không bằng sâu cỏ dưới
kia, (172)
Chim nhờ trời vẽ đường đi, (173)
Cây nhờ đất giữ muôn thì tươi
non.
Thôi đành cam mỏi mòn ly biệt,
405- Chia ly này nào biết kêu
ai!
Thôi đành chẳng gặp hình hài,
Mỏng manh phận số, mốt mai
phai tàn.
Mong muốn chàng bình an tươi
trẻ,
Thiếp giữ dành muôn vẽ xuân tươi,
410- Bên chàng đi tới chân trời,
(174)
Bên chàng thiệp nguyện trọn đời
thuỷ chung
XIV
Với chàng nguyện tận cùng với
nước, (175)
Tấm lòng son cầu ước dân an.
Đói nghèo thôn xóm tiêu tan.
415- Quyết tâm lấy mật hung tàn
Nhục Chi (176)
Bọn Thiền Vu còn ghi tội ác, (177)
Chúng gây ra máu thác dân lành.
Giáo gươm ngang ngược tung hoành,
Trời kia sẽ giúp công thành hùng
anh.
420- Giúp hùng anh lừng danh
bách chiến,
Xe ngựa đoàn truy đến Quan Đông
(178)
Quan Đông, Quan Bắc tên lồng (179)
Đầu non, cuối núi máu hồng thôi
rơi! (180)
Cuốn cờ xí lạnh rời quan ải
425- Khúc khải hoàn tướng soái
hồi hương. (181)
Núi Yên, công lính xây tường (182)
Vị Ương gặp mặt, quân vương đón
mừng (184)
Núi Ngân Hà, đao cung rửa sạch
(184)
Chốn Bình Hoài niệm phật từ
bi (185)
430- Nhạc mừng đất Hán lâm ly
(186)
Tài so Tần, Khúc kém gì tướng
quân (187)
Kỳ Lân đài công thành Hắc tướng
(188)
Trường cửu này, đất hướng trời
xa.
Lộc này tử ấm, con nhà (189)
435- Cao dày dành để vinh hoa
phúc trời!
XV
Vợ Tô Tần, một đời thiếp khác
(180)
Chàng đâu loài cờ bạc Lạc Dương
(191)
Ấn vàng cao uý hồi hương (192)
Dệt nên tấm trướng phi thường
ghi công.
440- Vì chàng cởi bào hồng, đoản
kiểm (192)
Chén vàng đây, rượu hiếm chàng
hay. (194)
Rủ phong sương lớp lớp dày,
Vì chàng mặt ngọc phấn này điểm
trang.
Giở khăn lệ cho chàng thấy rõ,
445- Đọc thơ buồn chàng tỏ từng
câu, (195)
Vui nay đổi lại xưa sầu.
Chén mừng mới kể trước sau mọi
điều.
Rót từ từ để tiêu sầu nảo,
Ca dần dần đợi sáo quyến hơi.
450- Bồ đào rượu quý dâng mời.
(196)
Khúc ca dành trọn những lời tương
thân.
Vì nghĩa cả mấy lần nâng chén,
Chút tình xưa kết nguyện nhân
duyên
Đôi ta giao bái thanh thiên (197)
455- Tương thân, tương ái nay
nên thái bình.
Thái bình mãi cho hình gắn bóng,
Lệ hết rơi, đời sống ấm êm
Gửi lời hội ngộ bình yên
Ôi này tài của tướng hiền,
minh quân ! (198)
Hà Nội - Huế 14 giờ 25, ngày 24 - 10 - 2011
Đỗ Hoàng
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét