Giữ gìn
sự trong sáng thơ Việt
Tôi không phải là nhà phê bình chuyên nghiệp, nên thấy thơ thích là đọc, không thích thì thôi. Hơn nữa tôi là người làm thơ, mà thơ thì trăm người trăm vẻ, người thích kiểu này, người thích kiểu kia, không ai giống ai. Mình chê thơ người ta thì khác nào chị hàng cá nguýt chị hàng thịt. Vậy nên khi các kiểu thơ đua nhau ra đời, thậm chí có tác giả thơ được lăng xê này nọ hoặc đoạt những giải thưởng do nhiều tổ chức trao tặng, tôi vẫn mảy may làm im.
Nhưng rồi càng ngày càng
thấy nhiều người sa đà vào viết kiểu thơ tắc tỵ hoặc dài dòng văn tự, dây cà ra
dây muống ( tức là đa ngôn ) thơ không vẫn, không điệu, không giống Việt, cũng
chẳng ra Tàu, ra Tây. Thơ họ giống như người nước ngoài học 100 tiết tiếng Việt
làm thơ Việt, cũng như chúng ta học 100 tiết tiếng Anh làm thơ tiếng Anh! Ấy vậy
mà cũng có người hết lời ca ngợi xem đó là cách tân, đổi mới thơ Việt. Thật ra
khi đọc kỹ thì thấy những người viết ấy chẳng có gì là cách tân, đổi mới, họ chỉ
khuấy nước đục lên để không ai biết cái ao thơ của họ quá cạn mà thôi. Họ càng
làm tắc tỵ để càng nhiều người không hiểu, để họ càng “thiên tài”.
Lại thêm nhiều người viết
ca ngợi. Tôi thấy không đúng. Người
không hiểu thơ, ca ngợi đã đành; người hiểu thơ cũng vì thế này, thế nọ mà ca
ngợi là không được!. Cái hại cuói cùng không phải người làm thơ đích thực mà hại
cho người đọc. Người đọc hoang mang không biết định hướng thế nào, đâu là thật,
đâu là giả, vàng thau lẫn lộn! Họ hoang mang vì họ thấy những nhà phê bình có
tên tuổi khen, những nhà thơ có thương hiệu khen. Như vậy thật là bất công.
Tôi thấy tôi phải làm một
việc gì đó họa may cung cấp một thông tin chính xác cho người đọc về cái gọi là
“ Thơ ” đang ngự trị văn đàn.. Tôi chẳng có diễn đàn nào, thôi chỉ có cách duy
nhất là dịch nó ra thơ Việt, vừa cho mình hiểu biết đâu có người nào đó hiểu cũng
được, thế là mừng rồi! Rồi đi đọc chui, xuất bản “miệng”!
Dịch những kiểu viết trên
ra thơ Việt, tôi cũng áy náy lắm! Không cứ là thơ mà mọi điều trong cuộc sống đều
phải luôn luôn mới, không có đổi mới tức là sự sống bị ngừng trệ! Nhưng đổi mới
như thế nào?
Bố mẹ để cho cái nhà,
mình chỉ xây thêm một gác nhỏ là mới rồi.; chứ bỏ nó đi rồi ra đồng che một túp
rạ cũng gọi là mới sao? Chỉ cần một cơn gió nhẹ thì túp lều ấy bay ra thành bụi.
Chưa nói đến chó sủa, mèo kêu cũng hoảng hồn! Rồi còn bọn trộm cướp đầy đường,
đầy chợ!
Nhà thơ Hàn Mặc Tử có
viết: “ Vẫn biết nghệ thuật chuộng ở sự tiến bộ, sự hoàn toàn từ tinh thần đến
hình thức của bài thơ, song le ta không quên rằng, thơ của ta là thơ Quốc âm.
Ta phải giữ đúng tinh thần Việt Nam của ta. Hơn nữa cái tinh thần phương Đông
là nhờ ở cái đẹp kín đáo, cái tình sâu sắc, cái buồn thấm thía.”
Ngay cả cổ nhân cũng dạy:
“Công phu thâm xứ thi bình dị” ( Thơ đạt đến chỗ thâm hậu công phu hay nhất vẫn
là thơ rất bình dị ).
Trên thế giới này chưa có
một nhà thơ thiên tài nào tự mình tạo ra được một hình thức của thơ kể cả Đỗ Phủ,
Lý Bạch, Bạch Cư Dị, Tô Đông Pha, Lục Du, Nguyễn Trãi, Nguyễn Du, Hồ Xuân
Hương, Nguyễn Khuyến, Trần Tế Xương, Puskin…
Bỡi vì hình thức thơ của
một dân tộc phải trải qua hàng nghìn năm mới có. Dân tộc ta cũng vậy mà các dân
tộc trên thế giới cũng thế.
Rồi còn vần điệu. Những
câu có vần điệu chưa phải là thơ. Nhưng đã là thơ có vần điệu thì đạt đến mức
tuyệt bích. Từ khi mới có loài người,
các tộc người chưa có quá một nghìn từ để
trao đổi đã có thơ không vần. Loài người tìm ra vần điệu trong ngôn ngữ chẳng
khác nào trong cuộc đời mình loài người tìm ra lửa. Trong tiến trình lịch sử tiến
lên, thơ không vần điệu bị loại bỏ, chỉ còn thơ có vần điệu. Nhưng thời hiện đại,
khi tư duy con người phát triển, những suy nghĩ đột phá, những ý tưởng độc đáo
cũng để lại trong trí nhớ người đọc thì thơ không vần có chỗ đứng và trở thành
hàng “độc”. Tuy vậy trên thế giới này những bài thơ không vần được người đời
ghi nhận cũng chỉ đếm trên đầu ngón tay! Làm thơ không vần cũng giống như đi xiếc
trên dây, rất dễ thất bại!
Bây giờ có người làm thơ in
đến bảy tám tập thơ không vần để bắt đọc giả coi đó là thơ siêu việt thì là một
điều hoang tưởng!
Nhiều tác giả cắt, chẻ câu
thơ, xuống dòng lên dòng một cách tùy tiện, viết không vần , không điệu một
cách lạm phát, đấy chưa phải là sáng tạo ra hình thức thơ mới. Đấy chỉ là sự
làm rối rắm lên mà thôi!
Tôi là người dịch Đường
thi, tôi thấy những kiểu thơ bầy giờ nó còn lởm khởm hơn cả bản dịch nghĩa thơ
của nước ngoài ra tiếng Việt. Người Việt mình có nhiều cách nghĩ, cách cảm,
cách nói phong phú mà nhiều người không phát huy mà còn lược bỏ đi thì thật
đáng tiếc!
Khi đọc bài thơ “ Mẹ sinh
tôi” in trên phụ san Thơ - Báo Văn nghệ
năm 2003 của một nhà thơ có câu:
“ Mẹ sinh tôi ra từ dưới đáy xã hội
Cũng từ dưới đáy xã hội, mẹ tôi nuôi tôi lớn lên…”
Tôi nảy ra ý nghĩ: - Hai câu thơ này có thể chuyển ra câu thơ lục
bát truyền thống của Việt Nam nhưng vẫn không mất ý nghĩa mà còn giản bỏ nhiều từ
thừa. Thế là tôi dịch:
“ Mẹ sinh tôi duới rốn đời,
Nuôi tôi khôn lớn nên người hôm nay…”
Khi đọc khổ thơ của một tác
giả khác:
“ Đêm rơi qua dải khăn mây
Gió đợi chờ thơ thác
Nảy đọt yêu thương
Lớn trên tay những mầm khao khát
Khẻ về sắc cỏ thanh miên..”
Tôi nghĩ là tác giả này có
tứ rất là hay, sao không thể hiện cái hay của mình mà đi nói lảm nhảm, thật uổng
phí. Tôi liền dịch nó ra thơ Việt:
“Mây đêm buông xuống bất ngờ,
Thơ reo tiếng nhac, gió chờ đợi nhau.
Tình yêu có phép nhiệm màu,
Dồn khao khát nhớ lên đầu ngón tay!...”
Đến khi đọc Tạp chí Thơ số
5 năm 2006 có bài thơ “Ngươi Digan” của một nhà thơ :
“Người Di gan không buồn/ chỉ biết hát/ nhiệt cuồng và mê loạn
người Di gan không đau/ chỉ biết múa/ vũ điệu ngã nghiêng phố xá/
rạch rúi làm xiếc diễn tuồng
người Di gan không khóc/ chỉ biết cười/ chào mời đổi chác/ giơ tay
xin giơ tay vẫy mặt trời”
Viết thế là không hiểu
con người. Một con người bình thương cũng không phải thế, huống gì cả dân tộc
thương khó như dân tộc Di gan. Họ suôt đời lang thang kiếm sống bằng lời ca, điệu
múa, họ đau buồn lắm chứ, tôi liền dịch:
“ Người Di gan quên buồn!
Khi họ múa, họ hát.
Nhiệt cuồng và mê thác,
Suốt ngày dài đêm thâu!
Người Di gan quên đau!
Khi họ hát và múa
Vũ điệu nghiêng phường phố,
Thân làm xiếc, diễn tuồng!
Người Di gan thậm buồn!
Tiếng cười thay tiếng khóc
Chào mời và đổi chác
Ngửa tay ăn xin trời!”
Thế là từ đó, khi đọc
các loại thơ trên, tôi thấy bài nào quá tắc tỵ, quá đa ngôn tôi liền dịch ra
thơ Việt. Lúc đầu tôi dịch để tự mình cố
hiểu tác giả họ viết gì, hơn nữa khi tôi dịch ra thơ Việt, tôi mới nhớ bài thơ
của họ qua bản dịch của tôi. Hầu như bài thơ nào tôi dịch lại tôi đều thuộc,
còn đọc nguyên bản dù tôi là người học khoa học tự nhiên tôi không tài nào thuộc
được! Sau đó thì đọc cho anh em thân hữu nghe, thay một lời phê bình!
Khi có Blog, tôi post lên
blog chơi, giao lưu với mọi người.
Tôi được một nửa anh em, bạn
bè đồng tình, nhà thơ Nguyễn Trác – Tổng biên tập Tạp chí Nhà văn, nhà thơ Lê
Đình Cánh, nhà văn Văn Vinh động viên tôi cứ dịch; một nửa phản đối kịch liệt.
Thậm chí khi tôi trích dẫn những câu thơ tục tỉu của các tác giả để phê phán, họ
lại vu cho tôi là người làm bẩn thỉu, làm ô uế blog và cảnh cáo blog tôi một tuần,
nhưng vì bị sự cố nên bị cấm mất gần một tháng. Tất cả bài vở đều bị delete hết!
Số đồng tình viết trên
blog của tôi, ca ngợi việc làm này! Tôi nhớ có chị Phương Phương, anh Nguyên
Hùng, Tùng Bách, Nguyễn Đức Đát, Vương Trọng, Hồ Văn Thiện, Trần Quang Đạo,
Nguyễn Hữu Quý…. Họ đều là những nhà thơ cự phách, nhà quản lý kinh tế, nhà
khoa học. Anh Nguyên Hùng còn là tiến sỹ khoa học ở Nga, dịch giả thơ Nga!
Nhiều tác giả tán đồng bảo
rằng: - Tôi đã làm rõ nghĩa các bài thơ mà khi đọc nguyển bản, họ không hiểu
ra. Nhà thơ Nguyên Hùng viết:
“ Hoan hô bác Đỗ thật cừ,
Dịch Văn Cầm Hải cứ như uống trà.
Nguyên bản em đọc không ra,
Nhờ qua bản dịch biết là thật hay!”
Nhà thơ Tùng Bách viết:
“Kể ra chú cũng hào hoa
Dịch thơ Việt ra thơ Ta tuyệt vời
Riêng vụ “ Hoe chân lời” ( Một bài thơ tắc tỵ của Văn Cầm Hải )
Chú cũng phiên được, khiến tôi phục tài !”.
Nhà thơ Tùng Bách viết tiếp:
“Đỗ Hoàng là thi sỹ có công đầu trong việc giữ gìn sự trong sáng
thơ Việt”.
Anh Hồ Văn Thiện viết:
“Đỗ Hoàng đã làm một công việc tuyệt vời, còn khó hơn dịch thơ Tàu, thơ Tây ra
tiếng Việt”
Ngay nhà thơ Hoàng Vũ
Thuật khi tôi dịch bài “Mãi viên trà” của anh ra thơ Việt, anh cũng viết cho
tôi: “Đỗ Hoàng dịch như thế là sát nghĩa, vừa sáng tạo lại mà không làm mất
nguyên bản, thế cũng là tài hoa!”.
Nhưng cũng có nhiều ý kiến
phản bác, có người viết tên thật, có người nặc danh, “ khủng bố”, viết với một
thái độ hằn học quá đáng!
Ý kiến phản ứng của họ
là:- Đỗ Hoàng đã làm một công việc vô bổ, làm trò cười cho thiên hạ, có lẽ ông
bị điên hay ông tự quảng cáo mình. Nếu tự quảng cáo thì ông được điểm 9, còn
các tác giả ấy họ được điểm 10. Cô Kim Oanh ( Bình Định ), cô Võ Thanh Hoa ( Vũng
Tàu ), Khải Nguyên ( không biết ở đâu ) thì gay gắt hơn : “ Mỗi nhà thơ họ có đọc
giả của họ, ông có đọc giả của ông, chúng tôi phản đối việc làm của ông! Cảnh
cáo blog của ông là một việc làm rất đúng, để răn dạy người khác!”
Tự tôi, tôi thấy rằng,
không chỉ làm thơ mà viết văn, để cho người đọc không hiểu và ngay cả bản thân
mình không hiểu là có lỗi với công chúng, đó là chưa kể về sự sai lầm thi pháp,
trong tư duy, và quy luật tâm lý tình cảm của con người. Nhà thơ Vương Trọng viết
cho tôi:
“ Miệt mài chú dịch thơ Ta
Điên đầu nhức óc để ra cái gì?
Tự mình hành hạ làm chi!
Rồi thì nằm khểnh, thích thì uống bia.
Đặt bày trò nọ, trò kia,
Còn hơn chú định hành nghề dịch chui.
Lung tung họ nói những lời,
Họ còn chẳng hiểu, chú thời hiểu sao?
Chi bằng kệ họ với nhau!”
Đỗ Phủ đã từng nói: “Thi bất
kinh nhân, tử bất hưu” ( Thơ chưa làm xúc động lòng ngươi, chết chưa yên!”
Cái được, cái không được
chỉ chờ độc giả phán quyết! Còn thâm tâm tôi, tôi muốn phân vàng ra thau ra
thau!. Đời lừa chúng ta nhiều quá rồi, các nhà thơ không nên lừa người đọc nữa!
Xin chờ ý kiến của mọi người!
Hà Nội ngày 23 tháng 1 năm 2008
Đ - H
Đỗ
Hoàng
DỊCH
THƠ VIỆT RA THƠ VIỆT
DỊCH
VÔ LỐI THANH TÂM TUYỀN
Nguyên
văn:
Cỏ
Tác giả: Thanh Tâm Tuyền
Em bao giờ là thiên nhiên
anh cuối đầu xuống ngực
giòng mưa sắc của cỏ
những ngón tay những ngón chân những nụ cười
nắng tháng ba mưa lá
đau môi
Cỏ của hoa và hoa tháng bảy sương tháng chín
cho thơm đường hôm nay đến sớm mai
hôn từ ngày dài tội lỗi
chưa quên
Gai trắng con ngươi mở mù lòa
hơi đất nằm trong tóc
thèm muốn mỗi hàm răng
từng móng vuốt
đầy đồng xanh hoa nhiều màu một người
cỏ ơi cỏ kết thành lời
sống sót dàn nhạc huy hoàng
cô đơn
Giấc vụng về
tia nhọn sáng
đừng rơi hoàng hôn cánh rừng dầy
những ngực thương nhau
không áo
vì cỏ dại rối bời
Chúng ta ôm thời gian trong suốt
chẳng phân vân
như mặt trời chuyện trò cùng lũ cỏ
như lá cây thầm ngã phủ vai trần
như tiếng tim thốt cười ngoài dĩ vãng
BÌNH
GIẢNG
Hồi
miền Nam tạm bị chiếm có hai tác giả Vô lối là Thanh Tâm Tuyền và Lê Văn Ngăn.
Thanh Tâm Tuyền cón có làm thơ Việt, Lê Văn Ngăn toàn tòng Vô lối. Hai tác giả
đã chết. Tuyền chết bên Mỹ, Ngăn chết trong nước. Ngăn sau giải phong miền Nam
theo phe ta vào được Đảng Cộng sản Việt Nam. Vô lối của Thanh Tâm Tuyền thì dở
hơi, cụt lủn, như bị thần kinh, Vô lối của Ngăn dài dòng văn tự, dây cà ra dây
muốn lòng thòng xu thời báo công với Cách mạng không có ý nghĩa gì! Thua xa
hàng vạn dặm các bản dịch nghĩa thơ nước ngoài!
Để giúp bạn đọc hiểu thêm đám Vô lối, tôi sẽ
lần lượt phân tích, bình giảng các tác giả Vô lối được trích dẫn. Đầu tiên là
bài Cỏ của Thanh Tâm Tuyền. Trước đây tạp chí thơ đã lăng xê Thanh Tâm Tuyền in
một chùm thơ hẳn hoi. Vừa rôi tạp chí Nhầ văn & Tác phẩm cũng in thơ Tuyền
và một bình luận khá dài. Tôi đã dịch ra thơ Việt của Tuyên và một bài phản biện
tạp chí Nhà văn & Tác phẩm. Có là một loại bài đặt trưng cho lối viết dở
hơi của Thanh Tâm Tuyền.
Mở đầu bài Cỏ là một câu rất ngớ ngẩn, vớ vẩn:
“Em
bao giờ là thiên nhiên”
Em là
con người, con người là một phần của thiên nhiên, sao còn nói một cách vô nghĩa,
ngớ ngẩn như vậy!
Thiên nhiên
đã được định nghĩa: “Tự nhiên hay
cũng được gọi thiên nhiên, thế giới vật chất, vũ
trụ và thế giới tự nhiên (tiếng Anh: nature)
là tất cả vật chất và năng
lượng chủ yếu ở dạng bản chất. "Tự
nhiên" nói đến các hiện tượng xảy
ra trong thế giới vật chất, và cũng nhắc đến sự sống nói chung. Phạm vi bao quát của nó từ cấp hạ
nguyên tử cho tới những khoảng cách lớn trong vũ
trụ. Nghiên cứu về tự nhiên là một mảnh ghép lớn
trong thế giới khoa học. Dù cho con người hiển nhiên là một phần của tự nhiên,
nhưng những hoạt động của con người thường được phân biệt rạch ròi khỏi những
hiện tượng tự nhiên.(Theo từ điên Wikipedia)
Em đã
là thiên nhiên. Em to lớn như vậy, anh cúi đầu xuống ngực, làm sao được.Phóng đại
em thành kẻ khổng lồ khủng long thế thì mần ăn chi được!
Câu tiếp là câu lại vô nghĩa, ngớ ngẩn, hâm hấp:
“giòng
mưa sắc lá
đau môi”
Ba
câu tiếp theo cũng vô thưởng, vô phạt, thừa chữ, thừa lời:
“Cỏ của
hoa và hoa của cỏ
những ngón tay những ngón chân những nụ cười
nắng tháng ba mưa tháng bảy sương tháng chín “
Thơ
phải kiệm lời, tùy hoàn cảnh nhấn mạnh, còn ở đây có gì mà dùng đến ba chữ “những”
Tiếp
theo cả một đoạn hôn hít, điên dại, tính dục bẩn thỉu, rời rạc, không có một ngữ
nghĩa gì:
“hôn
từ ngày dài tội lỗi
chưa quên
Gai trắng con ngươi mở mù lòa
hơi đất nằm trong tóc
thèm muốn mỗi hàm răng
từng móng vuốt
đầy đồng xanh hoa nhiều màu một người
sống sót “
Nối
theo đoạn này cũng là một đoạn vô bổ, cũng đầy dục tính bẩn thỉu, rời rạc, tắt
tỵ, đánh đố, còn thua ông nói gà, bà nói vịt. Ngỡ như Thanh Tâm Tuyên ddang từ
trong trại tâm thần Trâu Quỳ đi ra! Nào “ Cỏ ơi, cỏ kết thành lời”, “thèm muốn
mỗi hàm răng”, “giàn nhạc huy hoàng”, “cô đơn” đến “những ngực thương nhau/
không áo”…:
“dàn
nhạc huy hoàng
cô đơn
Giấc vụng về
tia nhọn sáng
đừng rơi hoàng hôn cánh rừng dầy
những ngực thương nhau
không áo
vì cỏ dại rối bời “
Đoạn kết cũng tù mù, uốn éo, vô nghĩa “ôm thời
gian trong suốt chẳng phân vân” sao còn so sánh như”, sáo rỗng “ huy hoàng”,
“những ngực thương nhau” “ như mặt trời chuyện trò cùng lũ cỏ”?.
Ngoài việc triệt tiêu trăm phần trăm vần, điệu Vô lối củaThanh Tâm Tuyền có cả bài Cỏ này là
một kiểu viết quái thai không chấp nhận được trong văn học dân tộc Việt.
Hà Nội
10 – 12 – 2017
Đ - H
Đỗ Hoàng dịch ra thơ Việt
CỎ
Mong em nét đẹp như tiên
Cho anh cúi đầu xuống ngực
Mặc dòng mưa dài lá sắc
Cỏ hoa hoa cỏ làn môi!
Những ngón tay thon, nụ cười
Mưa nắng tháng ba, tháng bảy
Thơm đường đến ngày mai ấy
Nụ hôn dài không hề quên!
Hương đất còn trong tóc em
Ơi hàm răng đều trắng muốt
Đầy đồng hoa thơm tươi tốt
Sống vui lại một kiếp người!
Cỏ yêu, cỏ kết thánh lời
Cô đơn huy hoàng dàn nhạc
Giấc mơ vọng về tiếng hát
Đừng rơi hoàng hôn rừng dày!
Hai ta cầm tay trong tay
Ôm lấy thời gian trong suốt
Mặt trời chuyện trò hẹn ước
Tiếng tim vang vọng tiếng cười!
Hà Nội 10 – 12 – 2017
Đ – H
Dịch Thơ Việt ra thơ Việt
Thanh Tâm Tuyền
Liên những bài thơ tình thời chia cách ( 1 )
I- Sự em có mặt cần thiết như những sớm mai
( nếu đời người không có những sớm mai )
anh trở dậy
đọc thơ Nguyễn Du
những câu lục bát buồn rưng rưng cuối đường của một ngày
chợt anh muốn viết tặng em
không thể được
em làm con tin ở một thế giới
mà lòng sầu héo là một trọng tội
anh cố viết những lời thơ thật tự nhiên
như câu chuyện buổi còn gặp gỡ
như khoảng trời đơn sơ sau cửa sổ
anh gọi thầm một mình
trong giấc mơ phủ làn tóc biếc
anh biết anh gọi thầm một mình
II Sự vắng mặt của em và bãi biển mùa đông
thành phố đau từ mỗi cột đèn
mỗi bậc thềm cửa đóng
em đi không nón không áo choàng
mưa tầm tả
những cửa sổ đêm muốn hé ra
nỗi loạn
và mắt em mặt trời cỏ hoa với môi anh đằm thắm
và rực rỡ nhớ thương
( 1 ) Bài in trên Tạp chí Thơ năm 2006
Dịch:
Thơ chia xa
Có em như những sớm mai
Cho anh trở dậy đọc tài Nguyễn Du.
Những câu lục bát buồn ru,
Anh muốn viết tặng, nhường như khó làm.
Em con tin một địa đàng,
Mà lòng sầu héo đã mang tội đồ.
Anh cố viết những lời thơ,
Như câu chuyện buổi bất ngờ gặp nhau.
Khoảng trời cửa sổ nhạt màu,
Một mình anh gọi mơ đau tóc thề!
Em xa mùa lạnh biển mê,
Cột đèn, thềm phố tái tê nỗi buồn.
Em đi không nón, áo buông,
Mưa tầm tả cửa, đêm tuồng hé ra.
Mắt em trời thắm cỏ hoa,
Môi anh nồng cháy vỡ òa nhớ thương!
Hà Nội ngày 25 - 9 - 2006
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét