Thứ Ba, 2 tháng 2, 2021

Khúc ngâm vợ lính (Trọn bộ)

 


                      ĐỖ HOÀNG DỊCH CHINH PHỤ NGÂM

           Tôi dịch Chinh phụ ngâm xong từ tháng 10 – 2011, định không công bố bản dịch của mình, vì bản dịch của Đoàn Thị Điểm hoặc Phan Huy Ích là bản dịch quá tuyệt vời. Bản dịch vừa sát nghĩa, vừa tài hoa, đã Việt hoá một cách tài tình mà có thế khó có bản dịch nào vượt được. Nhưng rồi nghĩ lại mình dịch để mình hiểu thêm vẻ đẹp của tiếng Việt, rèn luyện vần điệu khi sáng tác thơ, cung cấp thêm thông tin cho bạn đọc. Điều này tôi nghĩ cũng chẳng có gì qua mặt tiền nhân. Vậy nên xin post lên để mọi người xem!

Hà Nội ngày 18 – 2 – 2012

Đỗ Hoàng

 

CHINH PHỤ NGÂM

 

(KHÚC NGÂM VỢ LÍNH)

(Bản dịch Đỗ Hoàng)

 

I

1- Cõi đất trời quay cuồng bụi gió, (1)

Phận má hường thương khó bao phiên! (2)

Cao xanh thăm thẳm giăng miền (3)

Ai làm nên nỗi đảo điên đất bằng? (4)

5- Trống Trường Thành gióng trăng náo động, (5)

Lửa Cam Tuyền cháy bỏng mây xanh (6)

Tuốt gươm việc lớn chín lần, (7)

Nửa đêm nhận lệnh tướng quân lên đường.

II

Ba trăm năm dân thường êm ấm, (8)

10- Áo lính này vật phẩm võ quan  (9)

Sứ thần cấp tốc truyền ban, (10)

Việc quân là lớn sá màng chuyện riêng.

Thân dũng sỹ cung tên mang vác, (11)

Buổi lên đường phó thác vợ con, (12)

15- Bóng cờ giục giã héo hon

Tiếng tiêu ngoài ải, nỗi hờn trong song. (13)

Chàng trai trẻ, con dòng tướng lĩnh, (14)

Bỏ sách đèn mưu tính việc binh. (15)

Một lòng dâng hiến anh minh,

20- Thước gươm quyết rửa tội hình Hung Nô (16)

Trai anh hùng nấm mồ da ngựa, (17)

Coi chết chóc nhẹ tựa tơ hồng! (18)

Theo quân xa biệt khuê phòng,

Vung roi cầu Vị, bềnh bồng gió Tây.(19)

25- Hói đầu cầu nước đầy xanh mướt,

Lối bên cầu cỏ mượt như tơ

Tiễn chàng lòng thiếp ngẫn ngơ,

Ngựa thuyền, thuỷ bộ bên bờ biệt ly! (20)

Dòng nước xanh sầu bi chẳng vợi,

30- Cỏ thơm tươi lại nối thêm buồn.

Dặn lời tay nắm lệ tuôn,

Bước đi mỗi bước sầu vương mấy lần.

Tình thiếp gửi trong ngần trăng sáng,

Dõi lòng chàng ngoài áng Thiên Sơn. (21)

35- Múa gươm tiễn chén rượu buồn  (22)

Cung tên nhằm thẳng vào đồn sói lang. (23)

Bắt Lâu Lan theo chàng Giới Tử (24)

Hàng Man Khê học cụ Phục Ba. (25)

Áo chàng ráng đỏ chói loà, (26)

40- Ngựa chàng cất bước như là tuyết bay. (27)

Tiếng nhạc ngựa chuyển lay tiếng trống (28)

Nước mắt rơi ướt bỏng bờ mi,

Buồn tênh cái lúc chia ly,

Chiến tranh kẻ ở người đi sao đành!... (29)

 

III

 

45- Hà Lương rẽ đường xanh mấy nẻo, (30)

Nhìn mặt nhau dạ héo như dưa,

Bên đường cờ xí phất phơ,

Càng trông, càng thấu thẩn thờ hồn mai.

Đạo quân trước chiếm đài trại Liễu, (31)

50- Ngựa chiến sau tuần tiễu Hà Dương (32)

Kỵ binh tiếp ứng lên đường,

Thuỳ dương biết thiếp đoạn trường này không? (33)

Bông mai rụng nảo lòng xa ngái,

Lính giết nhau máu tái lênh lang,

55- Trông mây, thiếp biết xa chàng,

Đoái sông, ngoảnh núi mơ màng phu quân!

Chàng mất dấu, mấy phần mưa gió,

Thiếp quay về vò võ phòng loan. (34)

Ngoái nhìn kỷ vật bàn hoàn, (35)

60- Non xanh mây lạnh, đa đoan não nề.

Chốn Hàm Dương trăm bề chàng nhớ,(36)

Nơi Tiêu Tương, thiếp cố vời theo. (37)

Hàm Dương cây cỏ vắng teo, (38)

Tiêu Tương mây khói, suối đèo buồn bơ! (39)

65- Cây Hàm Dương ngẩn ngơ nguồn cội,

Sóng Tiêu Tương vời vợi nghìn trùng.

Càng trông thăm thẳm mông lung,

Lưng trời ngăn ngắt, một vùng dâu xanh.

Dâu xanh trải như thành, như luỹ. (40)

70- Ai sầu hơn thiếp ý, lòng chàng.

Ai gây ra cuộc hỗn mang? (41)

Biệt ly đôi ngả, muôn vàn tang thương!

 

IV

 

Từ thuở chàng theo đường gió bụi,

Biết thân chàng lầm lủi nơi mô?

75- Xưa nay chinh chiến trận đồ, (42)

Tấm thân muôn dặm, nấm mồ táng đâu? (43)

Gió thổi rát thêm sầu mặt lạnh,

Dòng nước sâu, ngựa tránh chân xiêu.

Kê yên, gối trống sớm chiều, (44)

80- Màn trời, chiếu đất, trải nhiều đắng cay!

Bên Thành Luỹ, Hán nay chiếm đóng (45)

Thanh Hải đồn chật bóng Hồ Lang (46)

Một miền Thanh Hải thương tang. (47)

Núi cao máu rớt, suối ngàn lệ phơi!

85- Trên non xanh, tưyết rơi từng phiến,

Dưới lòng khe ẩn hiện hình ma,

Thương người áo giáp xông pha,

Nhớ về sầu nỗi quê nhà lạnh tăm!

Gấm vua ban tình thâm một thuở,

90- Gian nan càng rạng rỡ tài trai,

Bao miền viễn xứ ruổi dài,

Hết Hàm Dương lại ngược đài Tiêu Quan. (48)

Sương rơi lạnh cây ngàn điểm chốt,

Gió bụi khô mai một hình dong,

95- Lên cao trông sắc vân mòng,

Nỗi buồn này tự trong lòng buồn ra!

 

V

 

Chốn Đông Nam, chàng xa biền biệt. (49)

Chỗ giao tranh, thiếp biết nơi nao?

Đời trai gắn manh chiến bào, (50)

100- Chết chóc coi nhẹ bồng mao ngoài ngàn! (51)

Ân nghĩa chúa đã ban từ trước, (52)

Trải khổ nghèo, ao ước vinh thăng.

Non Kỳ lạnh lẽo treo trăng (53)

Bến Phì gió lửa mắc giăng lưới trời. (54)

105- Hồn lính chết tơi bời gió đánh, (55)

Mặt lính nhàu trắng lạnh trăng soi, (56)

Lính hèn phận cỏ, tôi đòi,

Có ai nào bỏ sức hơi gọi hồn! (57)

Bao cuộc chiến đầu non, cuối bãi,

110- Có ai qua van vái tình thương?

Chiến trường mấy kẻ hồi hương, (58)

Tướng Siêu tóc bạc như sương mới về! (59)

Nghĩ chàng trải sơn khê cách trở,

Ba thước gươm ngựa đỡ nhung yên. (60)

115 Sầu trong cỏ rả triền miên,

Lạnh lùng trăng tái tận miền quan san. (61)

Tiếng kêu vọng, thét vang đầu ngựa,

Trên thành cao dao rựa tên bay, (62)

Công danh cám dỗ nhường này, (63)

120- Nhọc nhằn vất vả chẳng ngày nghỉ ngơi.

Nỗi nhọc nhằn không lời ca thán,

Việc quân cơ năm tháng nào yên.

Biết ai gửi nỗi niềm riêng,

Thiếp trong rèm lạnh, chàng miền khói sương! (64)

 

 

VI

 

125- Trong rèm lạnh, thảm thương phận thiếp,

Ngoài cõi xa khốn kiếp thân chàng.

Tưởng là cá nước một đàn,

Biết đâu cách trở đôi đàng nước mây.

Thiếp nghĩ thân mình đây phận gái,

130- Chàng đã từng là phái Vường Tôn. (65)

Nam Bắc cách trở sóng cồn, (66)

Để người thức sớm trải hôm dãi dầu.

Khách phong lưu đứng đầu tuổi trẻ, (67)

Nét hào hoa suôn sẻ tình duyên.

135- Thương thay đôi lứa thuyền quyên,

Dặm nghìn xa ngái, hàn huyên được nào. (68)

Nhớ chàng xưa biết bao hào phóng, (69)

Bên thuỳ dương rợp bóng chim về.

Ngày nào chàng sẽ hồi quê? (70)

140- Cuốc kêu giục giã ngày về cố hương!

Cuốc than sầu, thảm thương oanh hót.

Trước lầu kêu, thảng thốt én bay, (71)

Nhớ chàng trung liệt lòng này.

Tuyết mai đã thấm những ngày gió giông.

145- Hỏi chàng thư ngày mong trở lại, (72)

Chàng hẹn hò khi hái đào hoa,

Giờ đào níu gió đông qua. (73)

Phù dung toá hoá sông xa hao gầy. (74)

Lại hẹn núi Lũng Tây năm ấy (75)

150- Suốt ngày dài, nào thấy tăm hơi.

Bướm tàn, thiếp búi trâm lơi, (76)

Để người đứng khóc, lệ rơi mưa dàn.

Chỗ thôn vắng, tiếng đàn réo rắc

Như là lời thầm nhắc đến chàng

155- Hán Dương cầu nọ hẹn sang, (77)

Ngày tàn, người vẫn mơ màng khói sương,

Gió hoang thổi tang thương vạt áo,

Giữa tầng không ảo nảo tấm thân.

Khóc than lệ rỏ trăm lần,

160- Hàn Giang dậy sóng chìm dần chiều hong! (78)

 

VII

 

Nhớ năm trước, thư mong chàng lại,

Năm này đây tin mãi chàng về, (79)

Tin đi, người chẳng hồi quê,

Hoa dương rụng rã, nảo nề rêu xanh. (80)

165- Rêu xanh rải chung quanh lớp lớp,

Mối bước đi trăm bước sầu tuôn.

Chuyện xưa nhắc lại thêm buồn.

Năm nay thư đến, tình suông nối lời.

Thư đã tới mà người chưa tới,

170- Trước rèm thưa mưa dội, nắng xiên,

Nắng xiên vàng võ mái hiên,

Hẹn mười lỡ chín mới nên nỗi này! (81)

Bấm đốt tay tính ngày cách trở,

Tiền sen này đã nở thành ba, (82)

175- Xót chàng ngoài cửa ải xa,

Thương sao lính thú Hoàng Hoa dặm dài. (83)

Người biên ải không ai thăm hỏi, (84)

Lính Hoàng Hoa trống trải khuê phòng,

Thân này tan nát nỗi lòng,

180- Thiếp này có phận như không có rồi! (85)

Lão thân chàng da mồi, tóc bạc, (86)

Con thơ chàng sửa khát đêm đêm,

Lão thân tựa cửa ưu phiền,

Con thơ mong bố vẫn biền biệt xa. (87)

185- Phụng cung thân như là trai giỏi (88)

Việc sách đèn, lời nói thay cha. (89)

Thiếp thân lo trẻ, chăm già

Nhớ chàng mấy độ cửa nhà vắng tăm!

Nhớ chàng hẹn trước năm đà quá,

190- Đến năm này cũng đã trôi xa,

Hai, ba, tới bốn năm qua.

Trăm nghìn vạn nỗi cho ra nỗi này.

Ước thiên lý tầm tay gần lại, (90)

Kể khổ đau, thiếp giải nỗi lòng.

195- Thoa cung Hán, thuở má hồng (91)

Gương Tần, lầu ngọc loan phòng thường soi. (92)

Ước gửi đến tận nơi chàng ở,

Cùng nhau bàn cho tỏ nguồn cơn,

Để chàng thấu nổi cô dơn

200- Linh thiên kỷ vật sớm hôm thiếp cầm! (93)

Nhẫn đeo tay tình thâm thuở bé, (94)

Ngọc cài đầu tuổi trẻ vui chơi.

Nhờ ai mà gửi tới nơi, (95)

Để chàng quý trọng tình người khi xa! (96)

 

VIII

 

205- Nhớ lúc này năm qua tin tới,

Nhưng năm này chờ đợi vắng tin.

Cánh nhàn ngỡ bức thư tình.

Sương rơi áo ấm một mình đệt may.

Chim hồng thư, gió tây cản lối, (97)

210- Thương chốn ngoài, mưa dội tuyết bay.

Tuyết bay lạnh lẽo nhường này.

Mưa đầu núi dội nỗi này ai cam?

Lạnh lẽo quá thêm càng gian khó,

Xót ngoài trời kiếp cỏ thân rơm,

215- Thư kia mấy chữ bờm khơm, (98)

Mấy câu bói toán cũng lờm lợp lay. (99)

Hoàng hôn đó mèm say cũng thể

Lui cui mò nào kể mà chi.

Mấy lần trăng khuyết, đêm đi. (100)

220- Lược gương, tóc lệch, tiếc gì hồng trang!

Từng dạo bước mơ màng trầm lắng,

Chốn khuê phòng im ắng buông rèm.

Ngoài rèm thước đã tin đem, (101)

Trong rèm đã có bóng đèn biết cho.

225- Đèn có biết, lý do nào biết.

Tự lòng này chỉ thiếp mới hay.

Lặng im càng nẫu nùng thay.

Nhìn đèn thấy ảnh hình này thêm thương!

Năm cánh trống đêm trường gà gáy. (102)

230- Tám chín lần liễu nảy cành tơ.

Sầu như biển thẳm vô bờ,

Một khắc bằng cả năm chờ đợi trông. (103)

Hồn phiêu dạt hương nồng gượng đốt,

Lệ rơi hoà thân một gương soi.

235- Căng tơ, lựa phím, nối lời, (104)

Cầm sắt loan phượng dám lơi ngón đàn!

Gió đóng hỡi, ý đang gửi đến, (105)

Tấm lòng vàng hiển hiện non Yên (106)

Non Yên dù chẳng tới miền,

240- Nhớ chàng dằng dặc muốn lên lối trời. (107)

 

IX

 

Trời cao lắm, xa vời mờ mịt, (108)

Nhớ chàng nên dăng dít nguồn sông.

Người buồn ảo nảo cõi lòng,

Tiếng cây lay động, tầng không sương dầm.

245- Dế nỉ non, âm thầm mưa thấm, (109)

Sương như rìu chém bẩm cành dương. (110)

Mưa cưa trời sập chuyện thường, (111)

Cánh chim đơn lẻ, bốn phương xa vời.

Dưới đường đi, thông rơi từng đám,

250- Tiếng chuông chùa đánh rạn khói mây, (112)

Trăng rơi, hốc dế lấp đầy,

Tiếng gào cây lá phất phây hiên nhà.

Tấm màn lay, gió qua song cửa,

Bóng trăng soi hoa nở trước rèm.

255- Dưới trăng hoa bớt kèm nhem, (113)

Dưới trăng hoa biết thắm thêm sắc hồng.

Chút hoa nguyệt mà lòng mơ ước, (114)

Giản đơn mà mộng được gì đâu.

Kể chi muôn não, nghìn sầu.

260- Thêu thùa trễ nãi từ lâu ngại tầm. (115)

Ngại xâu kim, ngại cầm đến chỉ, (116)

Ong bướm thêu mãi để trên khung, (117)

Tô son điểm phấn ngại ngùng, (118)

Suốt ngày tựa cửa mung lung ngó trời.

265- Trời thăm thẳm tít với sương gió,

Bên cửa này ai tỏ cùng ai?

Chàng đi vắng vẻ hôm mai,

Phấn son trang điểm hình hài mà chi!

Chẳng trang điểm lòng ni sầu thảm,

270- Chàng vẫn xa vạn dặm trời mây.

Bến Ngưu sùi sụt vơi đầy, (119)

Chị HHHHằng, (120) ả Chức đoạ đày thân hoa. (121)

Ôm nặng mối sầu ra làm gối, (122)

Phiền muộn kia lại đổi làm cơm. (123)

275- Nghiêng bầu, sầu vẫn mưa tuôn.

Rượu vào càng thấm nỗi buồn xót xa.

Ý vẫn muốn mượn hoa giải muộn. (124)

Mặt hoa nào ai muốn làm đau. (125)

Muộn sầu dồn dập trước sau,

280- Muộn sầu lắm nỗi thân mau xuống mồ!

 

X

 

Gõ sênh ngọc, lạnh khô tăm tiếng, (126)

Này tìm lên muốn liệng đàn đi,

Nhớ người quan ải gian nguy,

Đường dài mong mỏi lắm khi hao gầy.

285- Cuôc cuốc kêu vơi đầy giọt lệ, (127)

Trống tiêu vang như kể xót gan.

Nát nhàu mặt mũi thân tàn.

Chua cay mới thấu cách ngàn mây bay.

Thấu chua cay mới hay cách trở,

290- Chua cay này biết tỏ cùng ai?

Vì chàng nước mắt vắn dài,

Vì chàng thân thiếp hôm mai một mình!

Thiếp sao tới trường chinh gió bụi, (128)

Lau làm sao hờn tủi khăn chàng. (129)

295- Chỉ còn hồn mộng vượt sang,

Đêm đêm bên bến Hàn Giang tìm ngài (130)

Tìm chàng buổi Dương Đài lối nọ (131)

Gặp chàng xưa bờ cỏ Bến Tương (132)

Niềm vui hội ngộ bất thường, (133)

300- Tỉnh giấc trên gối mộng hường xuân bay! (134)

Hận thiếp này không tày ảo mông, (135)

Gần bên chàng làm sóng Hàn Quan (136)

Tiếc thay mộng ảo chóng tàn,

Mộng về để nỗi mơ màng tình mơ!

305- Duy chỉ mối lòng tơ không dứt, (137)

Vẫn từng lúc, từng phút theo chàng.

Theo chàng vắng vẻ tơ màn,

Lên cao ngóng dấu xe man mác sầu! (138)

Trông ngóng chàng nào đâu có thấy,

310- Bên sông này chỉ mấy nhành tơ,

Cỏ Yên xanh mướt ngoài bờ (139)

Um tùm dâu thắm làm mờ mây xanh.

Giếng thôn quê muôn phần bụi gió, (140)

Chiều hôm buông, cò đổ trước ghềnh. (141)

315- Ngóng chàng không thấy buồn tênh,

Đường quan thăm thẳm chênh vênh trường đình. (142)

Rừng Ngô kia rập rình mây khói, (143)

Trời Thục này vời vợi non cao (144)

Bắc phương thành quách đổ nhào (145)

320- Mưa ngưng, lầu vắng, sáo nào véo von?

 

XI

 

Ngóng chàng mãi héo hon nào thấy!

Lưng trời xa biết mấy lá rơi.

Xập xè bầy trĩ từng đôi,

Bên sông mai thắm liền trời chim bay.

325- Gió đông hết, gió lay mờ mịt,

Tây phong kia đã bịt đường về, (146)

Ngóng chàng nào thấy ủ ê,

Trời xa sông vắng tái tê nhạn rầu. (147)

Miền xa ngái để sầu muôn nỗi,

Gió tây từng cây nối tiếp cây.

330- Thương thay người đến chốn này,

Trông trời đất, trông núi mây bộn bề.

Một ngày lên lầu về mấy lượt,

Lớp mây kia thườn thượt mắt nhìn,

Ngọ Quan nào xứ chiến chinh (148)

335- Gậy thu đất, Phi Trương Trình cho hay! (149)

Hận không có tiêu bày khăn lạ (150)

Chỉ tấm lòng hoa đá cũng nên,

Lên lầu nước mắt cạn thêm (151)

Quay trông dương liễu một miền xa xanh.

340- Phong hầu ấy, công danh ảo tưởng (152)

Núi sông này nghìn trượng xa xôi,

Lòng chàng, ý thiếp chung lời,

Lòng này rực rỡ rạng ngời cánh dương. (153)

Chỉ sợ chàng ánh Vương cao cả, (154)

345- Đoái chi loài cỏ rả hoa này.

Hoa dù rực rỡ cao dày,

Hoa tươi nhờ được có ngày cậy trông. (155)

Dù ánh dương dẫu không soi rọi, (156)

Bông hoa này vẫn dõi ánh Vương.

350- Hoa dù tơi tả bên tường,

Tàn phai vẫn gửi đêm sương tỏ bày!

 

XII

 

Nhánh lan trước sân này đã bẻ,

Ngọn tần kia thơm khẻ đưa hương.

Trước nhà khăn áo lược gương,

355- Ngước xem trời đất khác thường sao băng.

Chút sáng tối Ngân giang mờ tỏ (157)
Lối sao Khuê khi có, khi không. (158)

Mây kia đậm nhạt mơ mòng,

Để cho Bắc Đẩu lộn vòng Bắc Nam (159)

360- Trăng sáng chiếu, thiếp màng gì sáng,

Ngọn gió kia bãng lãng thiếp buồn.

Âu sầu mặt ngọc lệ tuôn,

Anh hùng lưu lạc cuối đường xa xăm. (160)

Nhớ khi xưa hình tằm, bóng kén (161)

365- Bây giờ sầu cách biển trời thương.

Chàng giong ngựa dõi dặm trường,

Dấu xưa, lầu cũ thiếp thường dạo qua.

Gió xuân về hiên nhà đã hết,

Thương thay cho đẹp tiết lỡ rồi.

370- Cành Diên, đoá Nguỵ vàng phơi (162)

Ngưu Lang, Chức Nữ tái hồi mấy khi (163)

Hội trăng sáng có thì chẳng tới,

Thật uổng thay vời vợi phòng không.

Tiết trời làm nỡ chạnh lòng.

375- Xuân xanh thoáng chốc, ngó trông đời tàn.(164)

Buồn xuân hết, thu tan càng hận,

Một vui này, mười bận buồn thương. (165)

Sầu xa, nỗi hận đôi đường.

Mấy kỳ thuỳ liễu khác thường tươi xanh.

380- Chỉ sợ Trác Văn Quân đầu bạc (166)

Lo mặt hoa xơ xác Phan Lang (167)

Buồn cho nhan sắc, hương tàn

Hoa thôi chớm nụ, xuân sang nửa chừng.

Hối quan âm gieo đừng phó thác,

385- Khóc tuổi hoa mệnh bạc buồn thay

Xuân xanh mới đó những ngày,

Ngoảnh nhìn thoáng chốc hôm nay da mồi.(168)

Gác thơm đó nào tươi vẻ mặt,

Loài hoa kia cũng tắt làn hương.

390- Giận trời chia rẽ đôi phương,

Vì chàng, vì thiếp khóc thương than này!

 

XIII

 

Chàng chẳng thấy uyên bay ngoài nội (169)

Từng đôi, ai chia nổi lòng yêu.

Thấy không đôi yến dáng kiều

395- Bạc đầu mà vẫn dập dìu bên nhau!

Loài sâu cỏ trước sau chung thuỷ

Vật vô tri tình ý trung thành,

Liễu đường nguyện mãi liền cành (170)

Sen ao trong ngọc để dành tình chung! (171)

400- Sao người lại muôn trùng cách trở?

Ta không bằng sâu cỏ dưới kia, (172)

Chim nhờ trời vẽ đường đi, (173)

Cây nhờ đất giữ muôn thì tươi non.

Thôi đành cam mỏi mòn ly biệt,

405- Chia ly này nào biết kêu ai!

Thôi đành chẳng gặp hình hài,

Mỏng manh phận số, mốt mai phai tàn.

Mong muốn chàng bình an tươi trẻ,

Thiếp giữ dành muôn vẽ xuân tươi,

410- Bên chàng đi tới chân trời, (174)

Bên chàng thiệp nguyện trọn đời thuỷ chung

 

XIV

 

Với chàng nguyện tận cùng với nước, (175)

Tấm lòng son cầu ước dân an.

Đói nghèo thôn xóm tiêu tan.

415- Quyết tâm lấy mật hung tàn Nhục Chi (176)

Bọn Thiền Vu còn ghi tội ác, (177)

Chúng gây ra máu thác dân lành.

Giáo gươm ngang ngược tung hoành,

Trời kia sẽ giúp công thành hùng anh.

420- Giúp hùng anh lừng danh bách chiến,

Xe ngựa đoàn truy đến Quan Đông (178)

Quan Đông, Quan Bắc tên lồng (179)

Đầu non, cuối núi máu hồng thôi rơi! (180)

Cuốn cờ xí lạnh rời quan ải

425- Khúc khải hoàn tướng soái hồi hương. (181)

Núi Yên, công lính xây tường (182)

Vị Ương gặp mặt, quân vương đón mừng (184)

Núi Ngân Hà, đao cung rửa sạch (184)

Chốn Bình Hoài niệm phật từ bi (185)

430- Nhạc mừng đất Hán lâm ly (186)

Tài so Tần, Khúc kém gì tướng quân (187)

Kỳ Lân đài công thành Hắc tướng (188)

Trường cửu này, đất hướng trời xa.

Lộc này tử ấm, con nhà (189)

435- Cao dày dành để vinh hoa phúc trời!

 

XV

 

Vợ Tô Tần, một đời thiếp khác (180)

Chàng đâu loài cờ bạc Lạc Dương (191)

Ấn vàng cao uý hồi hương (192)

Dệt nên tấm trướng phi thường ghi công.

440- Vì chàng cởi bào hồng, đoản kiểm (192)

Chén vàng đây, rượu hiếm chàng hay. (194)

Rủ phong sương lớp lớp dày,

Vì chàng mặt ngọc phấn này điểm trang.

Giở khăn lệ cho chàng thấy rõ,

445- Đọc thơ buồn chàng tỏ từng câu, (195)

Vui nay đổi lại xưa sầu.

Chén mừng mới kể trước sau mọi điều.

Rót từ từ để tiêu sầu nảo,

Ca dần dần đợi sáo quyến hơi.

450- Bồ đào rượu quý dâng mời. (196)

Khúc ca dành trọn những lời tương thân.

Vì nghĩa cả mấy lần nâng chén,

Chút tình xưa kết nguyện nhân duyên

Đôi ta giao bái thanh thiên (197)

455- Tương thân, tương ái nay nên thái bình.

Thái bình mãi cho hình gắn bóng,

Lệ hết rơi, đời sống ấm êm   

Gửi lời hội ngộ bình yên

Ôi này tài của tướng hiền, minh quân ! (198)

 

 

Hà Nội - Huế  14 giờ 25, ngày 24 - 10 - 2011

                        Đỗ Hoàng

 

            CHÚ THÍCH KHÚC NGÂM VỢ LÍNH                  

                (Chinh phụ ngâm)

   Đỗ Hoàng chú thích có tham khảo các công trình của nhiều học giả nghiên cứu về Chinh phụ ngâm từ xưa cho đến nay.

 

   Đặng Trần Côn viết Chinh phụ ngâm khoảng năm 1840 - 1842, đầu niên hiệu Cảnh Hưng triều vua Lê Hiển Tông 91740 - 1786).

  Đời Hậu Lê là một giai đoạn loạn lạc, binh cách liên miên của chiến tranh đàn áp các cuộc khởi nghĩa chồng tham quan ô lại hà hiếp dân lành,đặc biệt là hai cuộc chiến tranh Lê - Mạc và Trịnh - Nguyễn. Tác giả đã khéo mượn sự kiện lịch sử, địa danh và tình cảm cặp cợ chồng trẻ xuất thân từ tầng lớp quý tộc của Trung Quốc để viết Chinh phụ ngâm. Với phong cách quý phái, với nhiều điển tích sử sách uyên thâm, để hiểu đầy đủ nội dung của nó, đòi hỏi người đọc phải có một trình độ nhất định. Vì vậy có người nói Chinh phụ ngâm thoát khỏi văn chương bình dân, nó thuộc vào hàng văn chương bác học và không được phổ biến rộng rãi như truyện Kiều.

  Nguyên bản Chinh phụ ngâm của Đặng Trần Côn có 478 câu, bản dịch Nôm của Bà Đoàn Thị Điểm hay của Phan Huy Ích có 408 câu. Tuy vậy bà (hoặc ông) không phải chỉ rút gọn mà những nơi cần thiết bà kéo dài hơn.

    Trướcđây, Chinh phụ ngâm được đưa vào sách giáo khoa, được chia làm 16 đoạn, đâ đặt tên tùy theo nội dung từng đoạn trích giảng. Ở đây tác giả để sách liên tucjtwf đầu đến cuối, đánh số các câu 5,10,15...bản Hán cũng như bản Việt để dễ tìm, xác định vị trí các điển tích. Các điển tích được đánh dấu số hiệu cuối câu từ 1 đến 236. Nhiều điển tích, ý nghĩa điển tích phải lật lại câu nguyên văn Hán để đối chiếu, để giải thích xác đáng hơn. Nhiều điển tích phải mở rộng về trí thức lịch sử, địa lý, thi ca, thiên văn, động vật, thực vật để mong đáp ứng cho học sinh, sinh viên và người cần tra cứu mở rộng, đỡ phải tìm thêm sách khác.

 

(1)  Nguyên văn: Thiên địa phong trần - Nghĩa đen: Trời đất luôn gió bui. Nghĩa bóng: Cõi đất trời muôn loài bị bao tai ương vì thiên nhiên, vì chinh chiến, vì đồng loài giằng xé, cuộc sống đảo điên không lúc nào yên.

(2)  Nguyên văn: Hồng nhan đa truân -  Kiếp người đẹp thường bị khổ đau lên xuống, chìm nổi nhiều phiên.

(3)  Nguyên văn: Du du hề bi thương - Cõi trời cao xanh dằng dặc

(4)  Nguyên văn: Thùy tạo nhân - Ai gây nên việc đảo lộn này?

(5)  Nguyên văn: Cổ bề thanh động Tràng Thành nguyệt - Tiếng trống trận Tràng Thành đánh làm cho ánh trăng náo động. Tràng Thành là địa danh bên Trung Quốc

(6)  Nguyên văn: Phong hỏa ảnh chiếu Cam Tuyền vân- Khói lửa ở Cam Tuyền hắt rạng tầng mây. Cam Tuyền một địa danh của Trung Quốc.

(7)  Nguyên văn: Cửu trùng án kiếm khởi đươngtịch - Chín lần vị chức sắc vỗ kiếm lên đường.

(8)  Nguyên văn: Thanh bình tam bách niên thiên hạ - Dân, đất nướcđược ba trăm năm hòa bình.

(9)   Nguyên văn: Tùng thử nhung y thuộc vũ thần - Chỉ sắc lính của sĩ quan. Áo nhung là áo giáp chỉ quân phục.

(10)Nguyên văn: Sứ tinh thiên môn thôi hiểu phát - Sứ nhà trời (Sứ thần của Vua) sớm truyền lệnh.

 (11)Nguyên văn: Cung tiễn hề tại yêu - Cung tên đeo bên mình.

(12)Thê noa hề biệt khuyết - Thê noa - Vợ con - Từ biệt vợ con ở cửa Vua.

(13)Nguyên văn: Huyên huyên tiêu cổ từ gia oán/ Hữu oán phân hề/ Hữu sầu hề khế khoát- Tiếng sáo, tiếng trống như nỗi oán lan ra từng gia đình.

(14) Nguyên văn: Lương nhân nhị thập ngô môn hào - Người trai hiền 20 tuổi ở cửa sang. (con nhà danh giá).

(15) Nguyên văn: Đầu bút nghiên hề sự đao cung- Bỏ bút nghiên chọn việc quân.

(16) Hung Nô là loại giặc tàn ác ở phía Bắc Trung Quốc, xưa ở vào mạn Mông Cổ. Nguyên văn: Nguyện tương cách kiếm trảm thiên kiêu - Nguyện cầm kiếm tìm cách giết lũ giặc trời kiêu ngạo. Thiên kiều - Giặc trời chỉ người Hồ ở phía Bắc Trung Quốc, cũng gọi là rợ Hung Nô.

(17) Nguyên văn: Trượng phu thiên lý chí mã cách - Kẻ anh hùng ngoài nghìn dặm chiến đấu đến cùng, dẫu chết thì lấy da ngựa bọc thây đem chông.Mã cách là da ngựa đã thuộc. Điển tích Mã Viện, tướng thời Hán từng nói: - Làm trai nên chết ở chốn sa trường biên ải, lấy da ngựa bọc thây đem chôn mới gọi là trai.

(18) Nguyên văn: Thôi sơn nhất trịch khinh hông mao - Cái chết nặng như núi Thái Sơn nhưng coi nhẹ như tơ hồng.

(19) Cầu Vị: Địa danh ở Trung Quốc.

(20) Cuộc tiễn đưa diễn ra bên bờ sông và đường cái

(21) Nguyên văn: Thiếp tâm tùy quân tự minh nguyệt/ Quân tâm vạn lý Thiên Sơn tiễn - Lòng thiếp như trăng sáng dõi theo chàng/ Lòng chàng buồn ở ngoài Thiên Sơn vạn dặm cách trở. Thiên Sơn - Tên núi bên Trung Quốc Chiến thành nam, thơ Lý Bạch có câu: "Tẩy binh Điều Chi thượng hải ba/ Phóng mã Thiên Sơn tuyết trung thảo" (Rửa gươm trong sóng bể dâu/ Ngựa ăn có máu tận đầu Thiên Sơn - Đỗ Hoàng dịch thơ)

(22) Nguyên văn: Trịch ly bôi hề vũ Long Tuyền - Đặt chén rượu xuống múa gươm tiễn đưa.

(23) Nguyên văn: Hoành chinh sóc hề chỉ hổ huyệt - Cầm ngang ngọn giáo nhằm thẳng vào hang hổ dữ.

(24) Vân tùng Giới tử lạp Lâu Lan - Giới Tử tướng giỏi nhà Hán. Lâu Lan là giặc man di - Nghĩa là theo Giới Tử để săn bắt Lâu Lan.

(25) Tiểu hướng Man Khê đàm Mã Viện - Đến Man Khê phải học hỏi tướng Mã Viện. Mã Viện, tướng giỏi đời Hán.

(26) Nguyên văn: Quân phi trang phục hồng như hà - Sắc áo linh của chàng như ráng đỏ.

(27) Nguyên văn: Quân kỵ kiêu mã bạch như tuyết - Chàng cưỡi con ngựa kiêu hùng trắng như tuyết.

(28) Nguyên văn: Kiêu mã hề loan linh/ Chinh cổ hề nhân hành - Tiếng nhạc ngựa lẫn tiếng trống chiêng tiễn người đi ra trận.

(29) Nguyên văn: Khoảnh khắc hề phân trinh - Chớp giây đã chia ly chinh chiến.

(30) Hà Lương - Địa danh ở Trung Quốc.

(31) Nguyên văn: Tiền quân bắc Tế Liễu - Quân đi trước ở bắc Tế Liễu. Tế Liễu - Địa danh ở Trung Quốc.

(32) Nguyên văn: Hậu kỵ tây Tràng Dương - Đoàn ngựa sau ở tây Tràng Dương. Tràng Dương - Địa danh ở Trung Quốc.

(33) Nguyên văn: Dương liễu na tri thiếp đoạn trường  - Cây thùy dương có biết nỗi buồn đứt ruột của thiếp.

(35) Nguyên văn: Thiếp xứ hề tạc dạ phòng - Thiếp quay về đêm phòng cô quạnh.

(36) Hàm Dương - Địa danh ở Trung Quốc.

(37) Tiêu Tương - Địa danh ở Trung Quốc.

(38) Hàm Dương - Như chú thích (36).

(39) Tiêu Tương - Như chú thích (37).

(40) Nguyên văn: Thanh thanh mạch thượng tang, mạch thượng tang, mạch thượng tang - Trên đường chỉ thấy dâu xanh, dâu xanh.

(41) Sáng tạo của dịch giả dựa ý " Thùy tạo nhân" (Ai gây nên cơn gió bụi này).

(42) Nguyên văn: Cổ lai chinh chiến trường - Xưa nay đi đánh nhau mãi ở chến trường.

(43) Nguyên văn: Vạn lý vô nhân ốc - Muôn dặm người ra chiến trường không có nhà trú.

(44) Nguyên văn: Thú phu chẩm cổ ngọc Long Sa - Lính thú lấy trống ngọc Long Sa làm gối; Chiến sĩ bão yên miên Hồ Lục - Nghĩa sĩ lấy yên Hồ Lục làm gối để ngủ.

(45) Thành Lũy - Địa danh ở Trung Quốc.

(46) Hồ Lang - Giặc Hồ.

(47) Thanh Hải: Địa danh ở Trung Quốc. Thơ Lý Bạch đời Đường có câu: "Há há Bạch đăng đạo/ Hồ khuy Thanh hải loan" (Đường Bạch Đăng quân Há đóng/ Đồi Thanh Hải giặc Hồ dòm sang) . Đỗ Hoàng dịch thơ - Trích trong bài "Quan sơn nguyệt" - Trăng nơi quan ải.

(48) Tiêu Quan: Địa danh ở Trung Quốc.

(49) Nguyên văn: Tự tùng biệt hận Đông Nam khiếu  - Tiếng kêu hận khi từ biệt ở Đông Nam. Đông Nam địa danh ở Trung Quốc.

(50) Nguyên văn: Cổ lai chinh chiến nhân - Người đi  đành giặc xưa nay

(51) Nguyên văn: Tính mệnh khinh như thảo - Mạng sống coi nhẹ như cỏ.

(52) Nguyên văn: Chủ ân thâm - Ơn sâu với Chúa.

(53) Non Kỳ: Địa danh ở Trung Quốc

(54) Bến Phì: Địa danh ở Trung Quốc.

(55) Nguyên văn: Phong niểu niểu phong xuy tử sĩ hồn - Gió lạnh lẽo thổi bay hồn lính chết.

(56) Nguyên văn: Nguyệt mang mang tằng chiếu chinh nhân mạo - Ánh trăng lạnh lẽo soi mặt lính chết.

(57) Nguyên văn: Tử sĩ hồn thùy ai điếu? - Lính chết không có ai xót thương.

(58) Nguyên văn: Cổ lai chinh chiến kỷ nhân hoàn - Xưa nay ở chiến trường mấy người trở về. Thơ Vương Hàn đời Đường có bài Lương Châu Từ: " Bồ đào mỹ tửu dạ quang bôi/ Dục ẩm tì bà mã thượng thôi/ Túy ngọa sa trường quân mạc tiếu/ Cổ lai chinh chiến kỷ nhân hồi" (Rượu quý Bồ Đào chén ngọc đây/ Tỳ bà trên ngựa giục đi ngay/Chiến trường be bét anh đừng mỉa/Đánh giặc người về hiếm xưa nay - Đỗ Hoàng dịch thơ).

(59) Nguyên văn: Ban Siêu quy thời mấn dĩ hoa - Ban Siêu lúc về nhà tóc đã hoa râm.

(60) Nguyên văn: Tam xích kiếm, nhất nhung yên - Ba thước gươm một tấm nhung yên.

(61) Quan san: Nguyên là cửa ải - Chỉ chiến trường.

(62) Dao rựa tên tay: Chỉ đánh nhau dữ dội

(63) Nguyên văn: Công danh bách mang lý - Công danh trăm phần bận rộn.

(64) Chàng miền khói sương - Chỉ cảnh chia li.

(65) Vương Tôn:Con nhà quý tộc. Đỗ Phủ có bài thơ "Ai vương tôn", xem Túy thì ca - Đỗ Hoàng dịch.

(66) Nam Bắc cách trở sóng cồn; Chỉ cách trở.

(67)Phái Vương Tôn: Chỉ tầng lớp trên.

(68) Hàn huyên : Trò chuyện.

(69) Hào phóng: Rộng rãi chỉ bậc sang giàu

(70) Hồi quê: Về nhà mình ở.

(71) Thảng thốt én bay: Cảnh nhà vắng vẻ.

(72) Ngày mong trở lại: Người chinh phụ nhớ mong tin tức.

(73) Nguyên văn: Đào hoa dĩ trục đông phong khứ - Gió đông đến hoa đào rơi hết.

(74)Nguyên văn: Laoxmai giang thượng hựu phù dung - Phù dung nở đầy trên song bên cây mai già.

(75) Lũng Tây: Địa danh ở Trung Quốc.

(76) Buồn rầu nên tóc rụng,bối không chặt nữa làm tâm bị lỏng.

(77) Hán Dương - Địa danh ở Trung Quốc.

(78) Hàn Giang - Địa danh ở Trung Quốc.

(79) Tin mãi chàng về - Người chinh phụ chờ thư.

(80) Nảo nề rêu xaanh: Đợi chờ lâu quá làm cây cỏ lụi tàn.

(81) Hẹn mười lỡ chín: Nhỡ hẹn nhiều lần.

(82) Nguyên văn: Bất giác hà tiền dĩ tam chú - Không biết rằng sen tiền đã nở ba lần rồi.

(83) Hoàng Hoa: Địa danh ở Trung Quốc.

(84) Biên ải: Chốn biên giới, biên thùy.

(85) Có phận như không có rồi: Chỉ phận bạc rủi ro.

(86) Lão thân: Chỉ chung bố mẹ đã già.

(87) Nguyên văn: Anh nhi hề đãi bộ - Con còn dại.

(88) Phụng cung thân: Thay chồng chăm mẹ già.

(89) Lời nói thay cha - Thay chồng chăm con học hành.

(90) Thiên lý: Nghìn dặm.

(91) Thoa cung Hán: Chỉ thời nhà Hán.

(92) Gương lầu Tần: Chỉ thời nhà Tần.

(93) Linh thiêng kỷ vật: Chỉ đồ quý.

(94) Nhẫn đeo tay: Kỷ vật thuở bé.

(95) Nguyên văn: Bằng thủy ký quân tử - Nhờ ai gửi tới cho chàng.

(96) Nguyên văn: Tha hương hạnh trân trọng - Để người xa quê yêu quí.

(97) Chim hồng: Chim đưa thư.

(98) Mấy chữ lờm khơm: Thư viết sơ sài.

(99) Câu bói bờm bợp bay:Câu bói không có nghĩa gì mấy.

(100) Chỉ thời gian trôi đi.

(101) Thước: Chim khách.

(102) Thời gian đợi chờ dài lắm.

(103) Khắc: Bằng 15 phút thời hiện đại.

(104) Chỉ việc đánh đàn.

(105) Nhờ gió đông gửi đến người chiến chinh.

(106) Non Yên: Núi Yên - Địa danh ở Trung Quốc.

(107)  Nguyên văn: Ức quân thiều thiều lộ như thiên - Nhớ chàng như đường lên trời xanh thăm thẳm.

(108) Nguyên văn: Thiên viễn lộ dị thông - Đường xa lên trời không có lối đi.

(109) Tiếng côn trùng kêu đêm buồn.

(110) Nguyên văn: Sương như phủ tàn hề dương liễu - Sương rơi như búa chém cành liễu.

(111) Nguyên văn: Vũ cứ tốn hề ngô đồng - Mưa cưa gãy cây ngô đồng.

(112) Nguyên văn: Viễn tự thời chung - Tiếng chuông chùa vang xa.

(113) Có ánh trăn, hoa rạng rỡ thêm.

(114) Hoa nguyệt: Tình cảm yêu đương mặn nồng của gái trai.

(115) Ngại tầm: Ngại tìm.

(116) Công việc thêu thùa.

(117) Nguyên văn:Oanh đối ngẫu, điệp thư hùng - Chim bướm thêu để nguyên trên khung.

(118) Không muốn trang điểm khi chồng xa vắng.

(119) Bến Ngưu: Tích trong Ngưu Lang 7 Chức Nữ - Chàng chăn trâu và cô gái dệt vải.

(120) Chị Hằng: Chỉ Mặt Trăng.

(121) Ả Chức: Tức là Chức Nữ, cô gái dệt vải.

(122) Nguyên văn: tạ sầu hồ vi chẩm - Ôm buồn làm gối.

(123) Nguyên văn: Chử muộn hề vi can - Ôm phiền làm cơm

(124) Ý giải buồn.

(125) Không nỡ trách người đẹp.

(126) Sênh ngọc: Nhạc cụ của nhà khá giả.

(127) Cuốc cuốc tức là con Đỗ Quyên.

(128) Trường chinh: Chỗ đánh nhau xa xăm.

(129) Nỗi buồn của người lính chiến.

(130) Hàn Giang: Địa danh ở Trung Quốc.

(131) Dương Đài: Địa danh ở Trung Quốc.

(132) Bến Tương: Địa danh ở Trung quốc.

(133) Hội ngộ bất thường: Không ngờ mà được gặp.

(134) Nguyên văn: Vô phi nhất chẩm mộng trung xuân - tỉnh ra trên gối một giấc mộng xuân.

(135) Ảo mộng: Mộng không có thực.

(136) Hàn Quan: Địa danh ở Trung Quốc.

(137) Lòng tơ: Lòng nhớ thương.

(138) Ý trong thơ Vương XươngLinh " Khuê trung thiếu phụ bất tri sầu/ Xuân nhật ngưng trang thướng thúy lâu/ Hốt kiến bạch đầu dương liễu sắc/ hồi giao phu tế mịch phong hầu" . Đỗ Hoàng dịch thơ: (Tươi trẻ nàng đâu đã thấm buồn/ Ngày xuân son phấn trước lầu gường/ Bên đường chợt thấy hàng dương biếc/ Hối mãi sai chống kiếm tước vương!)

(139) Cỏ Yên: Có nước Yên.. Ý thơ Lý Bạch - " Yên thảo như bích ti/ Tầm tang đê lục chi/Đương quân hoài qui nhật/ Chính thị thiếp đoạn thì!" (Cỏ Yên như tơ biếc/ Dâu Tần đã xòa cành/ Ngày về chàng mong nhớ/ Thiếp đứt ruột một mình!) - Đỗ hoàng dịch thơ.

((140) Cảnh quê.

(141) Cảnh quê.

(142) Trường đình: Chỗ tiễn khách.. Ngày xưa cứ 5 dăm người ta làm một trạm gọi là Đoản đình, 10 dặm đặt trạm lớn gọi là Trường Đình.

(143) Rừng Ngô: Rừng của nước Ngô ngày xưa ở Trung Quốc

(144) Trời Thục: Thuộc nước Thục ngày xưa ở Trungg Quốc nay là tỉnh Tứ Xuyên.

(145) Bắc phương: Chỉ phía Bắc Trung Quốc cũ

(146) Tây phong: Gió phía Tây Trung Quốc.

(147) Tê tái nhạn sầu: Cảnh buồn.

(148) Ngọ Quan (Ngọc Quan): Cửa ải Trung Quốc. Thơ Lý Bạch có câu: "Minh nguyệt xuất Thiên San/ Thương mang vân hải gian/ Trường phong kỷ vạn lý/ Xuy độ Ngọc Môn quan/ Hán há Bạch Đưng đạo/ Hồ khuy Thanh Hải loan/ Do lai chinh chiến địa/ Bất kiến hữu nhân hoàn/Thú khách vọng biên sắc/ Tư quy đa khổ nhan/ Cao lâu đương thử dạ/Thán tức vị ưng nhàn!" ( Trăng sáng lên núi Trời/ Mênh mang biển ngời ngời/ Gió thổi dài vạn dăm/ Cả ải Ngọc bời bời/ Đường Bạch Đăng Hán đóng/ Đồi Thanh Hải Hồ xơi/ Xưa nay nơi chiến đại/ Về lại được mấy người/ Ải xa buồn lính thú/ Nhớ nhà mặt nào tươi/Lầu cao mình than thở/ Than thân buồn không vơi!) - Đỗ Hoàng dịch thơ.

(149) Tích xưa: Gậy thu đất. Trương Phi Phòng học được phép thu đất (rút đất), chỉ gậy xuống đất thì đường xa vạn dặm cũng thu lại gần trước mắt.

(150) Nguyên văn: Hận vô tiên tử trịch ân phù - Hận không có khăn tiên nhiều phép lạ.

(152)  Nguyên văn: Hối giao phu tế mịch phong hầu- Hối hận xui chồng đi kiếm ấn phong hầu.- Đường thi: " Khuê trung thiếu phụ bất tri sầu/ Xuân nhật ngưng trang thướng thúy lâu/ Hốt kiến mạch đầu dương liễu sắc/ Hối giao phu tế mịch phong hầu" (Tươi trẻ nàng đâu đã thấm buồn/ Ngày xuân son phấn trước lầu gương/ Bên đườngchợt thấy hàng dương liễu/ Hối mãi sai chồng kiếm tước vương! - Đỗ Hoàng dịch thơ)

(153) Rạng ngời cánh dương: Chỉ sang trọng.

(154) Ánh Vương: Chỉ tước hiệu cao quý.

(155) Ý ca dao: "Vợ khôn chồng được đi giày/ Chồng khôn vợ cũng có ngày cậy trông".

(156) Ánh Dương: Chỉ sự cao cả

(157) Ngân Giang: Là sông Ngân Hà trên trời. (Quan niệm xưa).

(158) Sao Khuê: Một ngôi sao sáng trên trời.

(159) Nguyên văn: Bắc Đẩu hốt đê ngang - Sao Bắc Đẩu đã nằm ngang.

(160) Nguyên văn: Trượng phu do tha phương - Hảo hán đang ở quê người.

(161) Hình tằm, bóng kén: Chỉ sự gắn bó keo sơn.

(162) Tích xưa, Diên vàng, Ngụy tử. Họ Diên có hoa mẫu đơn vàng; họ Ngụy có hoa mẫu đơn tím. Những giống hoa có tiếng.

(163) Ngưu Lang, Chức Nữ: Chàng chăn trâu và cô gái dệt vải yêu nhau - Tích xưa.

(164) Xuân xanh thoáng chốc: Tuổi xuân mau hết.

(165) Nguyên văn: Biệt sầu thu hận, lưỡng tương ma - Sầu chia ly, hận thu qua, hai cái mài mòn lòng dạ.

(166) Trác Văn Quân: Người đẹp đời hán. Tư Mã Tương Như một khách tài tử văn nhân đến nhà chơi gảy đàn cho nàng nghe, nàng mê bỏ chồng theo luôn tài tử.

(167) Phan Lang: Người đẹp trai hòa hoa nổi tiếng đời Hán.

(168) Da mồi: Chỉ người đã già.

(169) Ngoài nội: Đồng cỏ.

(170)Ý thơ Bạch Cư Dị đời Đường: "Tại thiên nguyện tác ti dực điểu/ Tại địa nguyện vi liên lý chi" ( Xin kết nguyện chim trời liền cánh/ Xin làm cây cành nhánh liền nhau - Trường hận ca - Tản Đà dịch).

(171) Dành tình chung - Giữ tình chung thủy.

(172) Nguyên văn: Ta vật loại chi như tư - Ta so thua loài vật.

(173) An đắc tại thiên vi tị dực điểu - Nhờ trời binhfan chochim bay.

(174) Đi tới chân trời - Một lòng theo chồng.

(175) Nguyên văn: Nguyện quân hứa quốc tâm như đan - Nguyện cùng chàng tấm lòng son với nước.

(176) Vốn hai chữ Đan, Nguyệt đọc theo âm xưa là Thuyền, Nhục  - Tên hai bạo chúa Hung Nô.

(177) Thiền Vu - Chúa rợ hung ác Hung Nô.

(178) Quang Đông: Địa danh ở Trung Quốc.

(179) Nguyên văn: Sơn đầu, sơn vỹ tảo quảy cung - Đầu núi, cuối non sớm treo cung tên.

181) Khải hoàn hồi hương: Hát bài ca chiến thắng về làng.

(182) Núi Yên: Tên địa danh ở Trung Quốc. Núi Yên Nhiên ở ngoại Mông Cổ, đời Hậu Hán, Đậu Hiền đánh đuổi rợ Hung Nô đến đây, lên núi khắc công huân vào đá mới về. Công lính xây tường - Ý câu này thành ngữ: " Nước sông công lính".

(183) Vị Ương: Địa danh ở Trung Quốc.

(184) Sông Ngân Hán: Địa danh ở Trung Quốc.

(185) Bình Hoài: Địa danh ở Trung Quốc.

(186) Đất Hán: Chỉ Tring Quốc xưa.

(187) Tần Thúc: Tức là Trần Thúc Bảo, danh tướng khai quốc đời Đường.

(188) Hoắc: Tức là Hoắc Khứ Bệnh, danh tướng đời Hán.

(189) Tử ấm: Chỉ con nhà quyền quý.

(190) Tô Tần: Danh tướng đời hán.

(191) Lạc Dương: Đế đô cũ của Trung Quốc.

(192) Cao úy hồi hương: Bậc công thành, danh toại về làng.

(193) Đoản kiếm: Kiếm ngắn, dao găm.

(194) Chén vàng rượu hiếm: Đón tiếp nồng hậu.

(195)  Đọc thơ buồn: Kể lại nỗi niềm khi xa.

(196) Bồ đào tửu: Một thứ rượu quý.

(197) Giao bái thanh thiên: Cùng vái lạy trời xanh.

(198) Tướng hiền, minh quân: Vua sáng, tôi hiền.

  Hà Nội, 2 giờ 30 phút,  ngày 15 - 3 - 2012

 Đỗ Hoàng

 

 

 

 

 

 

 

 

 

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét