TAM
MẪU
Đỗ
Hoàng
MẸ ĂN XIN
Gạo
nhà Mẹ hết lâu rồi,
Mẹ
ăn xác sắn ngùi ngùi cho con.(1)
Mẹ
ơi nhận lấy vài lon,
Ngày
mai đơn vị con còn đi xa.
Mẹ
nhìn lòng nghẹn mắt nhoà.
Rét
run tay gậy thân già hụt hơi
Xiêu
xiêu bóng Mẹ xa rồi
Thóp
thoi chiếc lá vàng rơi giữa chiều!
3 -1972
(1)
Bã sắn – Tiếng miền Trung.
ĐỖ HOÀNG
MẸ BÁN THAN
Một
túp lều, một thúng than,
Mẹ
ngồi giữa chợ hàng hàng mưa rơi.
Đầy
bên sông, khách tới lui,
Có
ai hỏi mẹ một lời nào đâu!
Đói
nghèo rách rưới bấy lâu,
Cả
đời mẹ chỉ một màu than đen.
Áo
quần mảnh vá lấm lem,
Bụi
than năm tháng dày lên mấy phần.
Trời
đông hơi giá xuống dần,
Gió
reo xao xác tấm tranh bên lều.
Mưa
may lạnh lẽo tới nhiều.
Thân
già còm cõi giữa chiều xác xơ.
Mẹ
ngồi ôm ngực mẹ ho,
Tấm
thân gầy guộc co ro héo mòn.
Mỗi
ngày mẹ mỗi cõi còm.
Mỗi
ngày phiên chợ lại tàn mẹ ơi!
Giêng
hai rét mướt lâu rồi,
Mà
sao mẹ vẫn nón tơi xạc xài?
Mẹ
buồn, mắt mẹ nào vui!
Trọn
đời khổ cực ngậm ngùi xót xa.
Bây
chừ đàn cháu ở nhà,
Cơm
khoai không đủ mơ quà mẹ mua.
Bấy
chừ gạo chợ lại thua (1)
Người
bán than để ế thừa vì than!
Hàm
răng cầm cập run run,
Giữ
dòng mưa lạnh rưng rưng lại về.
Có
than ngồi giữa chợ quê,
Mẹ
già sao rét tái tê thế này?
Tiểu đoàn 3 ngày 29 - 11 - 1973
MẸ
TỪ CHIẾN TRANH
Có
hơn trăm mảnh vá.
Trên
tấm áo trơ sườn.
Sau
lưng mẹ đầy gió,
Giần
giất rung từng cơn!
Đường
quê thất thểu bước,
Buổi
chợ hôm úa tàn.
Những
tấm thân chẫu chuộc
Bên
khung trời phơi xương!
Còn
bao nhiêu bà mẹ?
Giữa
chợ quê gió tràn.
Hàng
triệu người đói khổ.
Sinh
ra từ chiến tranh!
24 – 12 – 1973
Đỗ
Hoàng
TAM
GÁI
LÍNH GÁI
*
Tín
tri sinh nam ác
Sinh
nữ do đắc giá bỉ lân
(Sinh
con gái hơn con trai
Sinh
con gái gả chồng gần
Sinh
con trai phải vùi thân chiến trường)
Binh xa hành - Đỗ Phủ - Đỗ Hoàng dịch
**
Giá
nữ dữ chinh phu
Bất
như khí lộ bàng
(Con
gái gả cho linh
Như
đem bó bên đường)
Tân hôn biệt -
Đỗ Phủ - Đỗ Hoàng dịch
Đường
trống trải mai này lạnh thế.
Rét
tê người như thể châm kim.
Tần
ngần tôi đứng lặng nhìn,
Một
đoàn bộ đội chúng mình hành quân.
Đoàn
lính gái áo quần còn mới
Lứa
lính này đưa tới miền trong.
Họ
không hề bị đeo gông,
Mà
sao ánh mắt mênh mông nỗi buồn!
Bước
gấp lại đầu buôn lạnh vắng,
Nghe
chỉ huy sốt sắng truyền lời:
“Rằng
quân ta đủ gái trai,
Vào
trong giải phóng đất trời tự do!”
Bầy
lính gái thẽn thò vì lạnh,
Ai
xát lòng muối mặn mà đau!
Hiền
hiền những ánh mắt nâu,
Lệ
rơi thấm đất nỗi sầu nghìn năm.
Họ
chết lặng cắn răng im tiếng,
Con
gái miền quê kiểng biết chi:
"Tâm
xà khẩu phật từ bi,
Đen
như hắc in những khi láng đường!"
Rồi
không rõ chán chường hay đói,
Hay
đường dài mỏi gối chùn chân?
Từ
trong đám lính quân hành
Tiếng
khóc xé ruột - thất thanh tang nhà.
Họ
giậm chân, hết la lại thét:
“Vào
trong kia nào biết buổi về.
Chao
ôi! Da diết nhớ quê!”
Gào
than theo gió bốn bề bão dông!
Gào
khản cổ gió đông chẳng thiết,
Gió
vô tình mải miết cứ trôi.
Trên
đường hàng vạn trăm người,
Dửng
dưng như ánh mặt trời cao xa!
Xương
trắng phơi nẻo ra tiền tuyến
Mồ
gái tơ diều liệng, chồn day!.
Lớp
này rồi lớp khác thay,
Màu
cờ lau trắng rợn lay sa trường!
Lời
động viên dễ thường miệng mỏi.
Vẫn
trơ trơ con gái lính mình
Giữa
trời đông câm nín thinh,
Cùng
chung bao nỗi nhục hình có cây!
*
Tim
tôi cũng tái ngây vì lạnh,
Cùng
đường vào cám cảnh ngày xa.
Đoàn
con gái lính đi ra.
Bao
giờ về lại quê nhà thưở xưa?
Và
cái chết sẽ chờ mọi lối,
Trên
con đường dẫn tới miền trong.
Chiến
tranh dai dẳng chưa xong.
Còn
bao nhiêu chuyện đau lòng xảy ra!
21 – 11 – 1973
OAN
HỒN LÍNH GÁI
Thân
lính gái gặp bao tai ác
Một
cõi đời sống thác nào yên
Sống
thì gặp buổi đảo điên
Tuổi
xuân đem ném vào miền biên cương
Thân
gái lính muôn đường cơ khổ
Đẩy
vào nơi bom đổ, đạn đì
Tàn
phai héo úa xuân thì
Sa
trường xương trắng còn gì mà mơ!
Năm
tháng trong buồn bơ sầu thảm
Cả
tuổi yêu u ám mây tàn
Hầm
hào, địa đạo, súng gang
Da
chì, tóc rối vỏ vàng tấm thân!
Bao
thế hệ tuổi xuân vàng úa
Cảnh
gái tơ bao lứa mồ hoang
Tấm
thân nào được chu toàn
Xương
phơi, thịt nát từng đoàn ra ma!
Đời
lính gái thật là vô phúc
Đã
chết rồi bị đục mồ lên
Làm
cho hồn vía không yên
Bơ
vơ lạc lỏng cuối miền hư không
Dựng
xương lên đeo vòng nguyệt quế
Đốt
văn khê mà tế vong hồn
Chắc
rằng cái lúc đem chôn
Không
hòm, không xiểng, không cồn tha ma
Người
ta gióng phèng la ing ỏi
Chẳng
qua là vì gói tiền thôi
Mấy
ai yêu quí con người
Huống
gì ma gái ở nơi suối vàng!
Ham
một chút bạc vàng bỏ túi
Bày
trò này lại xúi trò kia
Phần
trăm xin xỏ ăn chia
Đến
hài cốt cũng đầm đìa máu xương!
Kẻ
trong nước cùng đường làm bậy
Người
phía ngoài ngửi thấy mùi đồng
Tụng
ca âm đức ghi công
Ăn
xương, uống máu trên hồn gái ma
Cảm
lính gái tài hoa bạc mệnh
Sống
quay cuồng, chết lạnh tấm thân,
Xương
tàn còn bị tranh phần
Sống
đau đớn chết vô ngần đớn đau!
Hà
Nội, ngày 20 tháng 7 năm 2012
Đỗ
Hoàng
THÂN
GÁI
Thật
rồi mà tưởng như không phải
Nghe
chuyện bây giờ ngỡ xưa xa
Thúy
Kiều vấy bẩn bầy vô lại
Về
em kỳ nữ của quê nhà!
Đời
thì Sở Khanh nhiều hơn rắn
Hệ
lụy bao nhiêu kiếp thân Kiều
Trinh
nữ làm saomaf tròn trặn
Mỗi
bước ma bầy kéo tiểu yêu!
Anh
mới giang hồ,giang hồ vặt
Nghiệp
chướng hình như hãy vẫn còn
Em
đã giang hồ, giang hồ thật
Phận
mỏng thời gian rủ héo mòn!
Tài
hoa đã khép giờ oan uổng
Thấm
tận lòng sâu đâu chỉ tôi
Từ
Hải xa với trong mộng tưởng
Thân
gái đùa sao được với đời
TAM
XIN
ANH ĂN XIN
Anh
thẩn thờ trước gió,
Trên
trời mấy lạnh trôi.
Cả
tiểu đoàn đứng ngó,
Hiểu
anh sao bằng tôi!
Ruột
thừng ai thắt lại?
Nỗi
chua chay đói nghèo.
Nghe
máu sôi rờn rợn,
Như
nợ chồng kiếp theo!
Có
lẽ rồi ngày mai,
Khi
rửa tàn cuộc chiến.
Đời
tôi cũng thế thôi.
Như
đời anh đang đứng!
Tiểu đoàn 3
tháng 11 – 1973
ÔNG
ĂN XIN
Trên
tàu điện Bờ Hồ, Hà Nội
Các
tuyến đi Thụy Khê, Hà Đông, Bạch Mai...
Có
một ông ăn xin
Có
cái trán cao như trán Lê nin
Không
hiểu vì sao ông ăn xin
Đó
là điều những người lính vùng quê chúng tôi không sao hiểu nỗi
Và
những người cho ông nhiều tiền xu lẻ đi tàu điện nhiều nhất vẫn là những anh bộ
đội!
Ngày
mai chúng tôi lại vào chiến trường
Vẫn
văng văng nghe lời ông kêu cứu:
"Lạy
ông, lạy bà cho xin vài hào"
Trên
các chuyến tàu điện Bờ Hồ, Hà Nội đi các
ngã : Hà Đông, Thuỵ Khê, Bạch Mai....
Có
một ông ăn xin
Ông
ăn xin có cái trán cao như trán Lê nin!
Hà
Nội tháng 12 - 1973
EM
ĂN XIN
Trong
ga tàu hỏa Bắc Kinh về Nam Ninh buổi ấy
Đường
xa đến vài nghìn kilomet
Người
đông khủng khiếp
Vẫn
không che được bóng những em bé ăn xin!
Có
em thấp
Có
em cao
Có
em gây
Tất
cả đều như những bé Việt Nam của ta.
Nhiều
người làm phước cho vài tệ nhỏ
Trung
Quốc đã có bom nguyên tử, tàu Thần Châu vào ra vũ trụ như tàu hỏa chạy trên mặt
đất
Thế
mà trẻ thơ hành khất
Vẫn
còn!
Bắc
Kinh tháng 6 năm 2006
Đ
- H
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét