Khi
dịch bài Vô lối Chị Ba ở Phan Rang của Lê Văn Ngăn tôi những tưởng Lê Văn Ngăn
trốn được lính ngụy. Nhưng khi đọc lại tiểu sử Báo điện tử Văn nghệ Tp Hồ Chí
Minh thì nói Lê Văn Ngăn từng là trung sỹ quân tiếp vụ quân đội Sài Gòn. Sau
này Lê Văn Ngăn vào Đảng Cộng sản Việt Nam. Lình ngụy hay bộ đội Cụ Hồ thì cũng
là một thời đã qua. Cái đáng nói là Lê Văn Ngăn viết những thứ vô lối không
phải văn chương, thơ ca. Đã không phải thì phải lên án những nơi lăng xê.
VÔ LỐI
Lê
Văn Ngăn
Nguyên
bản:
THƠ TẶNG CHỊ BA Ở PHAN RANG (1)
Bác Hồ có viêt:
...Nói về văn nghệ, Bác thú thật có ít thì giờ xem các bài văn nghệ. Có lẽ vì thế mà
có lúc xem đến thì thấy cách viết thường ba hoa, dây cà, dây muống; và hình như
viết là để đếm dòng lấy tiền, có những bài nhạt nhẽo thế nào ấy.
Còn viết về chính trị thì khô khan và có hai cái tệ: một là rập khuôn, hai là dùng
quá nhiều chữ nước ngoài. Cái bệnh dùng chữ, là phổ biến trong tất cả
các ngành. Đáng lẽ báo chí phải chống lại cái bệnh đó, nhưng trái ngược lại báo
chí lại tuyên truyền cho cái tệ đó. Cố nhiên, có những chữ không thể dịch được
thì ta phải mượn chữ nước ngoài. Ví dụ: những chữ kinh tế, chính trị... thì ta
phải dùng. Hoặc có những chữ nếu dịch ra nếu dịch ra thì mất cả ý nghĩa, như
chữ “độc lập”. Nếu “Việt Nam độc lập” mà nói “Việt Nam đứng một” thì không thể
nghe được.
Nhưng có những tiếng ta sẵn có, thì tại sao lại dùng chữ nước
ngoài. Ví dụ: vì sao không nói “đường to” mà lại nói “đại lộ”, không nói “người
bắn giỏi” mà lại nói “xạ thủ”, không nói “hát múa” mà lại nói “ca vũ”?... Những
ví dụ như vậy nhiều lắm, nhiều lắm. Các báo Nhân dân, Thời mới, Quân đội nhân
dân... đều dùng chữ nhiều lắm.
Tóm lại chúng ta dùng chữ nhiều quá, có khi lại còn dùng sai nữa.
Mong rằng báo chí cố gắng sửa đổi cái tệ ấy đi. Tiếng nói là một thứ của rất
quý báu của dân tộc, chúng ta phải hết sức giữ gìn lấy nó, chớ để bệnh nói chữ
lấn át nó đi.
Khoa học ngày càng phát triển, có những chữ mới mà ta chưa có, thì
ta phải mượn. Ví dụ: ta phải nói “kilô”, vì nếu nói chữ “cân”, thì không đúng
nghĩa là 1.000 gram. Song những chữ dùng tiếng ta cũng đúng nghĩa thì cứ dùng
tiếng ta hơn. Có những người hình như sợ nói tiếng ta thì nói xấu hổ thế nào
ấy! Họ làm cho các cháu học sinh cũng bị lây bệnh nói chữ, như “phụ đạo”, “giáo
cụ trực quan”... Thật là tai hại!
Trích
bài nói chuyện tại Đại hội lần thứ hai Hội nhà báo Việt Nam, 16-4-1959
Hồ Chí
Minh toàn tập
Bài "Thơ tặng chị
Ba ở Phan Rang" của Lê Văn Ngăn in trong chùm 6 bài trên báo
Nghệ thuật mới, Phụ trương báo Người Hà Nội ra số 1 tháng 2 năm 2012. Lê
Văn Ngăn được nhiều báo, nhiều tổ chức lăng xê và tự gọi cách viết của mình là
thơ. Cá nhân tôi, tôi cho đó là một kiểu viết vô lối, vô cảm, dây cà, ra dây
muống, nhạt nhẽo, cũ rích đang thịnh hành làm tổn hại đến thẫm mỹ của
người đọc, đúng như Bác Hồ đã nhắc nhở cách viết của báo chi, văn nghệ sỹ
hơn 50 năm trước đây.
Thêm đề dẫn này để cho
người đọc rõ nguồn xuất xứ.
Đỗ Hoàng
VÔ
LỐI Lê Văn Ngăn
Nguyên
bản:
THƠ TẶNG CHỊ BA Ở PHAN RANG (1)
Phan
Rang, những năm ấy, có lẽ chị Ba không nhớ nữa
nhưng
tôi kẻ từng chịu ơn chị, tôi không thể nào quên quá khứ.
Năm
ấy, tôi đến từ phương xa
không
giấy tờ, không người quen, không nhà không cửa
và
tương lai tôi
tương
lai ở trong tay những kẻ bố ráp bắt người đi đánh thuê cho quân xâm lược
tương
lai buồn tênh như con đường bụi khô ngoài quán cà phê chiều hôm gió cuốn.
Có
thể tôi rơi vào bước đường cùng
nếu
không tình cớ gặp chị
Dưới
rặng me già bên chiếc xe những ổ bánh mì lặng im
chị
ngồi trông khách đến
Và
chiều hôm ấy
kẻ
lỡ bước được chị mướn về nhà dạy kèm con cái chị học hành.
Từ
ấy, tôi biết thế nào là hạnh phúc khi được sống dưới mái nhà
được
chiếc bàn bên khoảng trời xanh khung cửa sổ
được
ăn cơm mỗi ngày hai bữa
được
uống vị dịu dàng trong đôi mắt chị dịu dàng.
Cuộc
bố ráp và sự chết
Có
thể đầy tung cánh cửa vào đây lúc nào
Nhưng
trước thời khắc đó, tôi vẫn còn một ít ngày tháng êm đềm.
tâm
hồn không lạnh lẽo
Bây
giờ chị còn sống không chị Ba
Bao
nhiêu năm, dù chưa trở lại mái nhà xưa
Tôi
vẫn nhìn thấy chị mỗi ngày qua những người lao động bình thường
Những
người lao động bình thường ấy
không
bao giờ tầm thường trong đôi mắt nhìn đời.
Viết liền văn xuôi:
THƠ
TẶNG CHỊ BA Ở PHAN RANG
Phan
Rang, những năm ấy, có lẽ chị Ba không nhớ nữa, nhưng tôi kẻ từng chịu ơn chị,
tôi không thể nào quên quá khứ. Năm ấy, tôi đến từ phương xa, không giấy tờ,
không người quen, không nhà không cửa và tương lai tôi, tương lai ở trong tay
những kẻ bố ráp bắt người đi đánh thuê cho quân xâm lược. Tương lai buồn tênh
như con đường bụi khô ngoài quán cà phê chiều hôm gió cuốn.
Có
thể tôi rơi vào bước đường cùng nếu không tình cờ gặp chị. Dưới rặng me già bên
chiếc xe những ổ bánh mì lặng im, chị ngồi trông khách đến. Và chiều hôm ấy kẻ
lỡ bước được chị mướn về nhà dạy kèm con cái chị học hành. Từ ấy, tôi biết thế
nào là hạnh phúc khi được sống dưới mái nhà, được chiếc bàn bên khoảng trời
xanh khung cửa sổ, được ăn cơm mỗi ngày hai bữa, được uống vị dịu dàng trong
đôi mắt chị dịu dàng.
Cuộc
bố ráp và sự chết có thể đầy tung cánh cửa vào đây lúc nào! Nhưng trước thời
khắc đó, tôi vẫn còn một ít ngày tháng êm đềm.. Tâm hồn không lạnh lẽo!
Bây giờ chị còn sống không chị ba! Bao nhiêu năm, dù chưa trở lại mái nhà xưa.,
tôi vẫn nhìn thấy chị mỗi ngày qua những người lao động bình thường. Những
người lao động bình thường ấy, không bao giờ tầm thường trong đôi mắt nhìn đời.
Nhận
xét:
Về thơ ca cho điếm Zê rô
Không bàn!
Một
bức thư gửi người thân có chút chịu ơn hết sức bình thường
của lúc trốn llính nguỵ mà người Việt nào ở miền Nam thời tạm bị
chiếm cũng viết được, nếu biết đọc và biết viết.
Người có kỷ niệm và tâm hồn có thể viết hay hơn vì thật hơn, tình cảm
hơn.
Đây là kiểu sám hối của nhiều trí thức công chức trong vùng
miền Nam tạm chiếm. Khi Quân đôi nhân dân Việt Nam giải phóng miền Nam,
hỏi ai cũng nói tôi bị bắt lính, tôi trốn lính. Điều đó có thật
trong trong một số tầng lớp trí thức và thanh niên miền Nam vùng
tạm chiếm trước đây, chứ không phải tất cả.
Miền Bắc Xã hội Chủ
nghĩa không có nhiều trường hợp này, nhưng miền Nam thì nhan nhản.
Bây giờ đất nước thống
nhất lâu rồi, người đọc có thể chất vấn: “Thế miền Nam buông lỏng vậy
sao? Ông chạy không giấy tờ, không căn cước mà vẫn được mời dạy học thì xứ sở
đó là Thiên Đàng rồi!”
Ở miền Bắc
ông gắn với Hợp tác xã, với tem, phiếu gạo, ông chạy đi đâu, giáo dục phổ
thông, ai được dạy ngoài. Cụ Diệm quá "dân chủ"!
Chưa nói
đến cái tệ nghĩa tình, tác giả ở Quy Nhơn vào Phan Rang mấy cây
số mà không vào thăm ân nhân cứu mạng mình được - Giả dối hết sức, sến hết sức!
Ở miền Bắc
hầu hết không ai trốn đi bộ đội, có người còn viết đơn bằng máu mình chích ra
từ cổ tay. Anh hùng Lê Mã Lương là một ví dụ. (Bây giờ là Thiếu tướng quân đội
nhân dân Việt Nam)
Cái bức thư
của Lê Văn Ngăn mà ai đó gọi là thơ thì sỷ nhục cho nền văn
chương nước nhà!
Đỗ Hoàng
Dịch
ra thơ Việt
THƯ GỬI CHỊ BA Ở PHAN RANG
Phan
Rang, năm ấy chị Ba!
Chị
còn có nhớ hay là đã quên?
Em
chịu ơn chị bề trên,
Một
thời quá khứ đảo điên thế mà.
Thời
em tơi tả phương xa,
Giấy
tờ nỏ có, cửa nhà cũng không.
Tương
lai quả thật phiêu bồng,
Tương
lai ở kẻ tay không bắt người.
Những
phường dạ thú đười ươi,
Tóm dân,
đôn lính cho loài xâm lăng.
Tương
lai buồn tẻ, lặng tăm,
Con
đường bụi đỏ, quán tăng, gió nồng.
Số
em đến bước đường cùng,
Nếu
không gặp chị, tình chung đồng bào.
Mẹ
già, xe nặng, bánh bao,
Chị
ngồi trông có khách nào đến xơi,
Và
chiều hôm ấy, ai ơi!
Cầm
tay chị dẫn về nơi nhà mình.
Bảo
kèm con cái học hành,
Hạnh
phúc tôi có nên thành từ đây.
Chiếc
bàn học, bên trời mây,
Được
ăn uống thoả mỗi ngày hai ca,
Dịu
dàng thấm thịt thơm da,
Trông
đôi mắt chị như là trăng sao!
Dễ
chết, bọn ráp ập vào,
Đẩy
tung cánh cửa thế nào cũng xong.
Trước
thời khắc của tồn vong,
Tôi
còn dan díu trong vòng ấm êm!
Bây
giờ, chị đâu? Chị hiền?
Bao
năm chưa lại bên thềm nhà xưa.
Tôi
nhìn sớm nắng, chiều mưa
Chị
trong những kẻ cày bừa cần lao.
Bình
thường, cam chịu, nhường bao
Đôi
mắt nhân ái như sao siêu phàm!
Hà
Nội ngày 28/ 2 2012
Đỗ
Hoàng
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét