PHẦN SÁU
DANH SÁCH ƠN SOI 198 VỊ VĂN SĨ VIỆT ĐƯƠNG ĐẠI
THƠ
CHƯƠNG I
1- Khuất
Bình Nguyên thơ à uôm
Chạy giải
thưởng hơn con buôn chạy tù
2 - Mai Quỳnh
Nam thối mắm lu
Giả cầy, học
giả Hai Cu Nhật Hoàng.
3 – Thơ tình
nhạt nhất thế gian
Là ông giáo
Mai Văn Hoan, dưới vè!
4- Nhìn mông
hoa hậu vôi ve
Dương Kỳ anh
bị mông đè chết tươi
5 - Trần Gia Thái viết dở hơi
Đãi đằng nhục
bút hót lời líu la
6 - Lanh
chanh Nguyễn Thị Ngọc Hà
Thơ vè thấp
thoáng ta bà gian thương.
7 – Thôi đừng
nhắc đến Trần Trương
Mà làm xấu hổ
văn chương nước mình.
8 – Nguyễn
Bình Phương gã phong tình
Vô lối ngu độn
hắc tinh thi đàn
9 – Buồn cho
anh Vũ Từ Trang
Buôn gỗ sung
sướng lại quàng qua thơ.
10 – Văn Chinh viết lách ất ơ
Cũng dòng nhạt
nhẽo vật vờ trần gian
11- Hoàng
Quang Thuận đứa bịp tham
Tưởng mua
thơ được bằng vàng lưu manh.
12 – Khế Iêm
lộn chốn thập thành
Quyết phá
thơ Việt khó lành nỗi đau.
13 – Đỗ Kh đổi
nhịp ngắt câu
Cũng là loại
quỷ ba đầu sáu tai
14 - Vô lối
Nguyễn Phan Quế Mai
Dịch ra thơ
Việt khó xài ai ơi!
15 – Đỗ
Quyên là kẻ lắm lời
Ba voi không
ngọt một môi canh bù!
CHƯƠNG II
16 - Mai Nam
Thắng rất lù đù
Mấy câu vè
núi vi vu chim cò.
17 - Mai Phương chẳng có mộng mơ
Ngợi ca chủ
mỏ đem tơ đổi tiền.
18 - Phan
Huyền Thư thích nằm nghiêng
Vết thương
cho máu dính liền chân trôn
19 - Vi Thùy
Linh lúc lên đồng
Khỏa thăn lạnh,
thèm chồng, thèm anh.
20 - Giáng
Vân cái bụng chành ành
Cố đeo vô lối
chẳng thành gái ngoan.
21 - Phạm Dạ
Thủy lẻn lên ngàn
Rù rì chân
biển cơ hàn lặng thiinh
22 - Khô
khan cả viết thơ tình
Đặng Huy
giang tự chán mình mới hay.
23 - Lại Hồng
Khánh chẳng đễ quên ngay
Đã làm mấy
thứ lắt lay điệu vè.
24 - Nguyễn
Bá Chung rời xứ quê
Cố thêm tiếng
Việt ngóng về cố hương.
25 - Nhôm
nhoam là đứa Phạm Đương
Ăn cắp
thương hiệu công trường người ta
26 - Đỗ Doãn
Phương cũng ta bà
Thơ Việt gửi
đến quỷ ma chạy dài.
27 - Như
Thúy Định Thị môm khoai
Phơi ra chẳng
có một ai đến sờ.
28 - Hải
Dương có bác Hà Cừ
Viết hơi báo
chí đỏ lừ cá ao.
29 - Đoàn Mạnh
Phương cũng hô hào
Mở đường hướng
nghiệp lối vào kinh doanh
30 - Đường
sông, đường bộ xa gần
Mai Hồng
Niên tổng Cốc giần thót tim.
CHƯƠNG III
31 - Buồn
cho chàng Nguyễn Thanh Kim
Thơ không
hót được như chim trong lồng
32 - Thuận
Vi cũng rất bốc đồng
Chữ không vần
điệu đừng hòng ai mê
33 - Dư Thị
Hoàn - Vương Oanh Nhi
Tiếng Việt
líu miệng nói gì văn nheo!
34 - Phan
Hoàng giả bộ giọng mèo
Chỉ hô hai
chữ meo meo chẳng tròn!
35 - Đặng Hiển
giáo học kiếm cơm
Đá gà,đá vịt
văn chương đỡ sầu.
36 - Hoàng
Kim Dung cầm trống chầu
Câu chèo đẽo
gọt còn lâu được vè.
37 - Bùi
Quang Thanh xứ Nghệ nghè
Đò đêm sông
dọc một bè như ai
38 - Trào
phúng có được mấy bài
Ngũ Liên
Tùng gửi ai xài tớ cho
39 - Lê Khả
Sĩ như con cò
Mổ cá thì được
mỏ bò quẹo dao.
40 - Nguyễn
Thị Minh Thông xứ nào?
Về Thủ đô quyết dạt vào thơ ca
41 - Phạm Khải
bình vào phán ra
Khen văn mậu
dịch đậm đà tầm chương.
42 - Hưng
Yên hay ở Hải Dương
Bác Lê Hồng
Thiện thơ vườn hiếm hoi
43 - Trần Ngọc
Tảo than đá bòi
Câu thơ cũng
lấm mồ hôi nhọc nhằn!
44 - Trương
Hữu Lợi cũng biệt tăm
Thơ thiếu
nhi đến tết rằm chờ anh.
45 - Xuân Dục
viết khi đương xuân
Một đời vất
vả để gần đài thơ
CHƯƠNG IV
46 - Nguyễn
Thuận Anh đầy ước mơ
Vượt qua bến
Đục đến bờ nhân văn.
47 - Nguyễn
Xuân Hải cũng nhọc nhằn
Vong hoa
vương niệm đang nằm nơi xa
48 - Kiều
Anh Hương xăng rò ra
Mà sao thơ
phú nhạt nhòa khói um.
49 - Trần
Phá Nhạc phá tùm lum
Trường ca,
trường hát vất giùm xuống ao
50 - Trần
Xuân An cát gió lào
Cánh cò tả lót bay vào hư vô.
51- Ông phòm
Đỗ Hàn mộng mơ
Cách tân đổi
mới ta chờ kiếp sau
52- Lê Thấu
cũng chẳng bất ngờ
Văn chương,
nghị quyết hai bờ ta chăm
53 - Trần
Kim Hoa cũng khéo sủi tăm
Viết mà
không biết định nhằm nói chi
54 - Trần
Kim Anh cũng quên đi
Đọc rồi mà
thấy có gì thơ đâu.
55 - Nghe
xong chẳng thảm, chẳng sầu
Đỗ Văn Trị
cũng bạc đầu sợi văn.
56 - Nguyễn
Khôi cắm bản bao năm
Dân ca người
Thái đã nằm trong tim.
57 - Nguyễn
Thanh Lâm cố đi tìm
Bến bờ chữ
nghĩ dặm nghìn đường lên.
58 - Phạm Ngọc
Thái cũng không quên
Thơ ca luận
chiến dành riêng cho đời.
59 - Hoàng
Thế Sinh ở cuối trời
Khổ công năm
tháng chuốt lời chữ câu
60 - Viết
lách một chút đỡ rầu
Hữu Việt bơi
mãi còn lâu đến bờ.
CHƯƠNG V
61 - Lê Huy
Quang đủ họa thơ
Xem đi em lại
lờ mờ như tranh
62 - Mở hầm
lò tận nuí xanh
Lê Tuấn Lộc
có chút dành thi ca.
63 - Phạm
Thiên Thư ở quê nhà
Có bao câu
chữ lòa xòa khó xem.
64 - PhạmVân
Anh cũng lem nhem
Học đòi vô lối
nổi còi mấy chiêu.
65 - Cố công
viết lách sớm chiều
Phan Quế
mong muốn có nhiều người soi
66 - Bỏ phố
đi lên vùng đồi
Vương Tùng
Cương để thơ rơi dọc đàng
67 - Nguyễn
Hữu Hà chút lang thang
Xem ra thì
cũng mơ màng mung lung
68 - In nhiều
như Phạm Đông Hưng
Nhưng vào
người đọc độ chứng mấy câu.
69 - Vương
Quang Tần đã bạc đầu
Vẫn còn xa
ngái e lâu đến bờ
70 - Tóc tai
đã quá bơ phờ
Nguyễn Thế
Kiên đang ngóng chờ điểm danh
71 -Lê Cảnh
Nhạc Việt Nga Anh
Khônig câu
nào thật chân thành thơ văn
72 - Trần
Đăng Thao cũng biệt tăm
Sợi tơ của
nhện, con tằm ong chui
73 - Giữa
trưa, giữa nằng bùi ngùi
Nguyễn Hoàng
Sơn cố sụt sùi mấy tao
74 - Con sâu
cà vạt máu trào
Bành Thanh Bần
tránh bước vào chiếu trên
75 - Tiền
Giang có Trần Đỗ Liêm
Câu thơ sông
nước tàu thuyền đẩy đưa
CHƯƠNG VI
76 - Văn thơ
viết mấy cho vừa
Nguyễn Nho
Khiêm muốn đến bờ như ai
77 - Lê Khả
Sĩ cấu dài dài
Mấy câu trào
phúng thử tài xem sao
78 - Lê Hồng
Thiện không ồn ào
Vài câu điền
dã vườn ao phố phường
79 - Một thời
lăn lộn văn chương
Như Mạo thường
viết nêu gương phong trào.
80 - Trường
ca, trường cán ào ào
Nguyễn Anh
Nông muốn ngôi cao văn đàn.
81 - Xuống
đường biểu ngữ giăng hàng
Trần Phá Nhạc
hứa viết ngàn câu hay
82 - Dương
Ánh Dương đi ăn mày
Từng chê Mỹ
Dạ thơ ngày nhạt hơn
83 - Hà Tĩnh
có Nguyễn Sĩ Lương
Vào Bà Rịa
cho dài đường thơ văn
84 - Nguyễn
Đức Quang bao nhọc nhằn
Để có trang
viết bao năm miệt mài
85 - Trần
Nguyên Vấn viết lai rai
Trời cho sức
thọ dài dài là hơn
86 - Rụng
bông hoa huệ chập chờn
Đoàn Tảo gảy
một cung đờn mưa
87 - Trên
đông ông lão đi bừa
Bố Trần Ngọc
Thụ ngày xưa đi cày
88 - Ngô Viết
Dinh ít người hay
Một thời
chăm chỉ xới cày trang thơ
89 - Bảo
Sinh vè cải muối dưa
Trong tình
câu bát có thừa đật dâm.
90 - Cuối trời
lặng lẽ âm thầm
Nguyễn Sĩ
Lương được thóc cầm trên tay.
CHƯƠNGVI
91 - Sách in
tặng người cầm tay
Nguyễn Đỗ
Lưu mãi mong may mắn về
92 - Phạm Hữu
Xướng từ biệt quê
Câu thơ mang
nặng lời thề đất đai
93 - Phạm Sĩ
Đại quá miệt mài
Coi xe điện
chạy dặm dài văn chương
94 - Cao Tất
Tịnh lạc mấy phương
Giã từ thế kỷ
chọn đường hành văn
95 - Tú Sót
lặng hẳn tiếng tăm
Hiểu thêm
bao nỗi nhọc nhằn chữ câu
96 - Mong
cho lúa bớt bạc màu
Lâm Xuân
Vi lại mong cầu thơ hay
97 - Ngô
Cang lính trận những ngày
Viết thơ đứng
bóng khi cày ruộng ao
98 - Thiên
Thai rộng mở lối vào
Tiếc Trần
Thanh Tịnh sớm chào anh em
99 - Nguyên
Hùng cố lập tuổi tên
Yêu nghề thơ
phú mất tiền dại khôn
100 - Lê
Hưng Tiến cũng nóng nôn
Muốn mình đổi
mới phải còn gắng công
101 - Thay
câu, thay chữ, thay dòng
Lê Vĩnh Tài
quyết mình không giống người
102 - Hoàng
Xuân Tuyền khá chơi vơi
Cũ cũ mới mới rạc rời tấm thân
103 - Nghệ
An nữ sĩ Vân Anh
Chiến trường
khói lửa vẫn dành tình thơ
104 - Văn
Tăng bền bỉ đến giờ
Đồng Hới, Nhật
Lệ đôi bờ chép ghi
105 - Bình
Nguyên vẫn chuộng thư thi
Ninh Bình
năm tháng cũng vì anh em
CHƯƠNG VII
106 - Nguyễn
Trọng Hoàn không đáng khen
,Kiến văn,
kiến thức lem nhem thế nào?
107 - Đà
thành một thuở tự hào
Trương Văn
Ngọc lại trốn vào tình riêng
108 - Lã Ngọc
Khuê viết cho em
Câu nghe như
kết cấu thêm ga tàu
109 - Đường
sông, đường bộ đường cầu
Phạm Thế
Mính gửi những câu thâm tình
110 - Phạm
Thiên Thư thật với mình
Chép ghi lại
những bóng hính mình yêu.
111 - Trần Mỹ
Hanh dệt đường thêu
Ngợi ca cuộc
sống những điều mình tin
112 - Văn Cầm
Hải phép yêu tinh
Viết lừa những
đứa đầy mình văn nô.
113 - Nhà
mình đàn ông bước vô
Trần Kim Anh
mới có thơ dịu dàng.
114 - Nguyễn
Quyến cũng thích tình tang
Đất trưng lắm
khoảnh chẳng gang mỡ màu
115 - Đài
văn nghiên bút rực màu
Thế Hùng chống
gậy còn lâu nhập đền
116 - Bác sĩ
khoa trưởng bị chèn
Vú Oanh giải
phẩu tim đen tội đồ
117 - Làng
Lòi ngoài núi nhấp nhô
Nguyễn Thế
Húng búa ra xô voi ngàn
118 - Phạm
Khoa Văn nhập vũ trang
Câu thơ biên
tái ngựa sang lưng đèo
119 - Bến
sông Nhật Lệ đò chèo
Nguyễn Đình
Hồng có câu neo lòng người
120 - Kim
Liên Đặng Thị một thời
Quảng Bình đất
lửa còn rơi đến giờ.
CHƯƠNG VIII
121 - Phạm Tấn
Hầu dạ khúc mơ
Mới nguồn đất
mẹ bến bờ con neo
122 - Hai bờ
châu thổ cheo leo
Trúc Khê mơ
giọt rượu reo ngọn triều
123 - Hai bờ
Âu Á phiêu diêu
Lương Duyên
Tâm nhớ những điều tổ tiên
124 - Lê Thiếu Nhơn cố mới lên
Hóa ra lại
cũ hơn tên tuổi mình
125 - Cũng
trong dòng viết xập xình
Hồ Đăng
Thanh Ngọc cố trình làng thơ.
126 - Đôi
dòng mấy nỗi mộng mơ
Hồng Cầu
Nguyễn Bính cập bờ nhân văn!
Hà Nội 2 – 2015 đến 2 - 2017
PHẦN VĂN
CHƯƠNG I
1 - Phạm
Quang Trung tiến sĩ trâu
Có tiền, có
chức thì bâu khen phò
2 - Nguyễn
Đăng Điệp tiến sĩ bò
Cũng loài đĩ
bút văn nô thập thành.
3 - Phong Lê
cũng muốn nổi danh
Phê bình,
phê chén lại thành nhiêu khê.
4 - Đàm Quỳnh
Ngọc ngày trở về
Theo dấu cờ
đỏ để quê kêu trời.
5 - Thùy
Dương văn vẻ như người
Cô tôi tam
giác muôn đời không quên
6 - Cành ban
rỏ máu nước phèn
Vũ Hữu Sự chỉ
trống kèn qua loa
7 - Mai Ngọc
Tuyên sách in ra
Cũng một đổi
quyển thế là văn nhân
8 -Trần Hữu
Lục lên núi xanh
Xứ sương Đà
Lạt có thành sĩ phu?
9 - Lê Thành
Chơn giữa trời mù
Chỉ đường
cho máy bay vù bom rơi.
10 - Lê Đăng
Kháng vọng biển khơi
Ngọn bút
dâng tặng những lời cho quê
11 - Lên đỉnh
rồi mới bỏ về
Nguyễn Anh
Thư giữ lời thề nuôi con
12 - Yêu
ngành, yêu việc mỏi mòn
Nguyễn Hồng
Thái vẫn đang còn viết thêm.
13 - Chi
Phan công việc ấm êm
Mộng văn vẻ vẫn chí bền không buông
14 - Cao xạ
là khẩu súng trường
Dương Duy Ngữ
bước lên đường bút nghiên
15 - Đỗ Bảo
Châu cũng không yên
Phải in sách
kẻo họ quên mình rồi
CHƯƠNG II
16 - Sách in
nhiều như mọi người
Đức Hậu cố gắng
đửng rơi quyền nào.
17 - Hà Phạm
Phú ngỡ cựu trào
Nhảy qua
phim ảnh nên tào lao lung.
18 - An lạc
của Nguyễn Xuân Hưng
Không khéo
thì bị bê bưng vỉa hè.
19 - Xuất
phát từ chốn bùn quê
Lê Hoài Nam
có sách kê trên bàn
20- Phun rô
tan tác trên ngàn
Ngôn Vĩnh để
lại mấy hàng văn xem
21 - Nguyên
An ngó kỹ trước đèn
Chân dung
văn sĩ trống kèn cũng xôm
22 - Ngô
Xuân Hội chốn bia ôm
Mà choa vẫn
giữ nét thôn, dáng làng
23 - Học bay
lên núi, lên ngàn
Nguyễn Minh
Ngọc lại có ngàn câu văn.
24 - Nguyễn
Quốc Trung chẳng ăn
Viết theo định
hướng nhọc nhằn thấm chi
25 - Nguyễn
Tiến Hải có viết gì
Nghề biên tập
cũng có khi treo giò
26 - Nguyễn
Uyển bút ký trung du
Cho dân được
khoản đền bù ruộng công
27 - Làm
văn, làm báo lòng vòng
Như Bình
cũng có mấy dòng sách in
28 - Phạm Ngọc
Chiểu mãi lặng im
Tán rừng lặng
lẽ con chim bay gầy
29 - Nguyễn
Ngọc Mộc ít người hay
Nhưng sách
trinh thám cũng dày như ai
30 - Phạm
Thái Quỳnh loại tấu hài
Ngợi ca ơn
gió cho khoai mọi làng
CHƯƠNG III
31 - Đồng
Nai có Phạm Thanh Quang
Viết cho phố,
viết cho làng để coi
32 - Thế Đức
xuất khẩu nước ngoài
Vẫn cầm cây
viết nói lời từ tâm
33 - Thái Hà
dịch nhiều sách văn
Nhưng mà đọc
vẫn thấy trằn trọc sâu
34 - Huỳnh
Thạch Thảo nhiều dải dầu
Sức văn ở xứ sông Cầu nhớ tên
35 - Đỗ Bích
Thủy chuyện núi lèn
Gái ngoan cắm
bản thành nên bản lảng
36 - Tiểu
thuyết lịch sử dành trang
Phùng Văn
Khai muốn được sang miếu nghè.
37 - Gia cảnh
lắm lúc tua te
Trần Thị Trường
viết để phê nỗi niềm
38 - Trần Mạnh
Thường có chút riêng
Một thời bom
đạn khó quên lời bàn
39 - Hai
chièu sống Vũ Tú Nam
Thơ văn,công
tác vẫn làm như nhau
40-Xóm thôn
khoai lúa buồn đau
Phùng Gia Lộc
suýt va đầu vạ oan.
41 - Xứ nuí
có Hà Đức Toàn
Bản làng lên
khói rỡ ràng ngày xanh.
42 - Tháp Mười
đồng trảng mông manh
Vũ Thiên Kiều
sóng luá thành quê ta
43 - Băng
Sơn câu cú đậm đà
Tình người,
tình chữ mặn mà cả hai
44 - Một đời
văn mải miệt mài
Trần Bảo
Hưng gửi cho ai,cho mình
45 - Đỗ Vĩnh
Bảo giữa lặng im
Đèn sách
khuya sớm lặng tìm câu văn
CHƯƠNG IV
46 - Đào Thắng
lính tráng nhọc nhằn
Trang sách
in được bao năm miệt mài
47 - Cả văn,
cả báo là hai
Xuân Ba lại
muốn trổ tài đôi nơi.
48 - Văn
Chinh đủ mẹo với đời
Hái chè, bắt
bướm một thời thượng sơn.
49 - Cò nuí ả
Chu Thị Thơm
Từ rừng xuống
phố trải bươm chín chìu
50 - Ngợi ca
lãnh tụ mình yêu
Cao Năm Sáng
sáng chiều bình tâm
51 - Đoàn Hữu
Nam hiểu sơn lâm
Khói sương
cuội đá tím bầm lối ra
52 - Hoàng
Phương Nhâm chuyện quê nhà
Chưa tròn tập
cuối đã xa quê rồi.
53 - Hồ Thế
Hà kể cho vui
Dạy văn mà vẫn
ước người nhân văn
54 - Vượt
qua nhiều nỗi khó khăn
Văn Lừng lặng
lẽ như tằm dệt tơ
55 - Tạ Bảo cũng không bất ngờ
Mến yêu câu
chữ bờ phờ tóc tai
56 - Chu
Thùy Liên tận nuí dài
Chuyện mường
xin kể thêm vài chương hay
57 - Xuống
phường thử bút hai tay
Vũ Bình Lục
giáo án dày sách in
58 - Biết ai
hiểu hết thâm tình
Bùi Việt Sĩ
lại một mình trong đêm
59 - Phạm
Thành giận chốn đảo điên
Cò Hồn Xả
Nghĩa ai quên được mình
60 - Mái trường
bi kịch điêu linh
Nguyễn Hữu
Đàn tố thiên đình lắng nghe
CHƯƠNG V
61- Quân hàm
cấp tướng lon ve
Dũng Hà lăn
lộn văn vè khổ hung.
62- Không tới
nấc thang cuối cùng
Hoài An cái
dại nổi khùng như không
63 - Phê bình, phê bát lòng vòng
Đỗ Lai Thúy
cũng dây tròng văn nô
64 - Đào Bá
Đoàn chốn hải hồ
Câu văn mong
muốn sóng xô dạt dào.
65 - Đã từng
một thuở tự hào
Văn Phan
chiu chắt đường vào văn thơ
66 - Hai trời
Âu Á mộng mơ
Nhà văn Thuận
biết tôn thờ có không.
67 - Nguyễn
Thái Nguyên xứ Cửu Long
Văn thơ gác
trán mất tong hồi nào.
68 -Đi tìm
quặng đá đường vào
Nguyễn Thái
Sơn ngọn bút trào ga lăng
69 - Hô Thủy
Giang đã lặng tăm
Heo may mùa gió bao năm bàng hoàng
70 - Con bạc
khát nước lăng loàn
Lê Đức Mẫn
thoát đời tàn quán riêu.
71 - Ký ức
làng Cùa lãng phiêu
Đặng Văn
Sinh có bao điều nhắn tin
72 - Uông
Triều tự vượt chính mình
Thước gõ đầu
trẻ thành hình gươm đao!
Hà Nội 2015 - 2018
ƠN SOI : Đến Vạn người
ƠN GỌI : 198 VỊ
ƠN CHỌN: 810 VỊ
TỔNG CỘNG
1008 VỊ VĂN SĨ VIỆT ĐƯƠNG ĐẠI
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét