ĐỖ HOÀNG VÀ KIỀU
THƠ
Nguyễn Trần Thái
Năm 1996 trong giới văn chương ở Hà
Nội thấy bàn tán nhỏ to về tập thơ “Tâm sự người lính” của Đỗ Hoàng. Tôi lúc ấy
chưa được đọc. Nghe đâu cuốn sách đó đã bị thu hồi. Cũng là người lính trở về
sau chiến tranh, tôi tò mò muốn coi cho tường và muốn biết tác giả Đỗ Hoàng.
Bẵng đi một thời gian. Một buổi chiều tại
“Sân 51” nơi có trụ sở của Uỷ ban toàn quốc Liên hiệp các Hội văn học, nghệ
thuật Việt
Rồi Hoàng lại thôi không làm tạp chí “Diễn
đàn Văn Nghệ”. Rồi anh lại quay về làm tiếp cho tạp chí đó thời nhà thơ Phạm
Tiến Duật làm tổng biên tập… Rồi anh lại thôi… Rồi lại về làm cho tạp chí Nhà
văn - Hội Nhà Văn Việt
Đỗ Hoàng là một “gã” gàn. Vài chén rượu vào
là “hung lắm” nói nhiều, chiếm diễn đàn, được cái minh triết. Trong câu chuyện
Hoàng thường có những dẫn chứng Đông, Tây, Kim, Cổ sinh động và tường tận. Mọi
người vì thế mà vị nể.
Thỉnh thoảng anh lại ký vào một tập sách tặng
tôi. Một lần anh đem đến tặng tôi tập thơ “Tuý Thì Ca”. Anh tuyển dịch từ thơ
Đường của Trung Quốc. Lại còn thế nữa chứ! Sự hoài nghi kích thích tôi. Tôi đọc
rất chậm rãi tập thơ Hoàng dịch. Trời thật là một con người ngang và gàn. Sự
ngang gàn đáng yêu. Lần ấy vào năm 2003 tại quán bia Chùa Bộc có nhà thơ Vương
Tùng Cương, nhà thơ Lâm Huy Nhuận. Hoàng đọc mấy bài thơ Đường anh dịch. Trong
bài “ Chiến thành
“Tẩy binh điều chi
thượng hải ba
Phóng mã Thiên Sơn
tuyết trung thảo”
Hoàng phóng bút thành:
“Rửa gươm trong sóng
bể dâu
Ngựa ăn cỏ máu tận
đầu Thiên Sơn”
Tôi không nén được sự thán phục. Thần quá !
Dịch như thế thì thôi rồi. Thật là tài! Từ đó tôi không nghi ngờ gì nữa về cái
kiến thức Hán ngữ trong anh…
Tưởng thế rồi êm ả, yên vị mà làm cái công
việc sáng tác và biên tập. Nhưng không! Đùng một cái, lại thấy bàn tán về Hoàng
dịch thơ – thơ dịch – thường gọi là “dịch thơ Việt ra thơ Việt”. Anh dịch thơ
Việt của những nhà thơ Việt, thường là những tác giả có tên tuổi trong văn đàn.
Chuyện này lạ lùng, không thể hình dung nổi trong con người Đỗ Hoàng. Lại tưởng
như trò đùa tinh nghịch? Nhưng không! Đây chỉ là lối “chơi” rất Đỗ Hoàng mà
thôi!
Lại đùng một cái!
Cuối năm 2009 Hoàng đến tìm tôi. Anh hỏi xem
tôi có bản dịch văn xuôi cuốn “Kim Vân Kiều truyện” của Thanh Tâm Tài Nhân bên
Tàu không? Tôi bảo cho mượn mất rồi. Tôi nói với anh: “Nếu ông cần thì đến nhà
thơ Bằng Việt là có đấy!”. Tôi hỏi tiếp: “Ông phóng tác thành tiểu thuyết mới
à?”. Hoàng tủm tỉm: “Không ! Tôi phóng tác thành tiểu thuyết thơ mà dùng lối
thơ Cổ phong – Thơ lục bát các cụ ta đã sáng tạo ra”…
Lại tưởng là trò đùa, nghịch ngợm! Chết đấy!
Chết như bỡn chứ chả chơi đâu! Thật là một gã liều lĩnh. Cây đại thụ, Thi hào
Nguyễn Du “Viết Kiều đất nước hoá thành văn” đã toả bóng và âm vang gần ba thế
kỷ. Nó là cái xương sống của nền văn học trữ tình của nước nhà với những áng
thơ lục bát bất hủ đó sao! Tôi không tin cái lối chơi ấy của Đỗ Hoàng.
*
* *
Đùng một cái!
Đỗ Hoàng gặp tôi vẫn phong thái ấy. Vẫn
miệng tủm tỉm cười như phớt đời. Anh rút trong túi “dết” lấy ra một tập sách,
đề tặng tôi. Đây là tập tiểu thuyết thơ “Kiều Thơ” Hoàng phóng tác từ “Kim Vân
Kiều truyện” của Thanh Tâm Tài Nhân (nhà văn của Trung Quốc).
Lại nói về “Kiều Thơ” của Đỗ Hoàng.
Hết bàng hoàng này sang bàng hoàng khác! Tôi
vùi đầu đọc. Lại tò mò, lại hoang mang! Tôi đọc nghiêm túc “Kiều Thơ” tới bốn
lần. Bây giờ thì cái chủ quan cố hữu của tôi và kiến thức “nông cạn” của tôi
cũng có đôi điều về “Kiều Thơ” của tác giả Đỗ Hoàng.
Cuốn tiểu thuyết thơ “Kiều Thơ” của Đỗ
Hoàng, sách dày 400 trang được phóng tác dựa trên cuốn “Kim Van Kiều” của Thanh
Tâm Tài Nhân. Kiều Thơ được viết bằng văn vần. Lấy thể thơ “Lục bát” diễn tả
toàn truyện. “Kiều Thơ” được Đỗ Hoàng phóng tác dựa trên nguyên bản chữ Hán của
Thanh Tâm Tài Nhân. Cùng với công trình khảo cứu, chú thích rất công phu, cẩn
thận đã tạo cho diện mạo cuốn sách rất nghiêm túc. Từ nguyên bản chữ Hán, Hoàng
sáng tác thành 6122 câu thơ lục bát, gấp đôi số lượng thơ mà cụ Nguyễn Du đã
phóng tác. Tác phẩm của Thanh Tâm Tài Nhân đã có tác giả dịch ra văn xuôi. Sau
khi Thi hào Nguyễn Du phóng tác bằng thơ thì có lẽ chưa ai dám mạnh dạn dịch
bằng thơ nữa. Đã gần ba thế kỷ đi qua, đến nay sau cụ Nguyễn Du thì Đỗ Hoàng có
lẽ là người thứ hai mạnh dạn dịch và phóng tác “Kim Vân Kiều truyện” ra bằng
thơ “Lục bát”. Có điều Hoàng thành công là trong cuốn tiểu thuyết thơ của mình
là Hoàng đã không rơi vào “Diễn ca”. Cuốn “Kiều Thơ” được chia thành 34 chương.
Chương I là “Gia thế Kiều”… Chương 34 là chương kết thúc chương “Đoàn Viên”
Trong tiểu thuyết “Kiều Thơ” của Đỗ Hoàng đã
có sự sáng tạo rất táo bạo mà hợp lý. Kiều không có báo oán, Kiều chỉ báo ân mà
thôi. Điều này cũng phù hợp tính nhân đạo, bao dung truyền thống của ông cha
ta:
“Kiều rằng bay chết ai màng,
Nhưng vì
ân nghĩa trần gian nặng nề
Lần này hết thảy
tha về,
Từ nay
không được hành nghề bất lương!”
Thêm nữa đoạn Từ Hải mắc mưu Hồ Tôn Hiến.
Trong nguyên bản Kim Vân Kiều truyện và trong Truyện Kiều của cụ Nguyễn Du thì
Từ Hải chết đứng giữa trận tiền, thật là oan nghiệt:
“Trơ
như đá vững như đồng,
Ai lay
chẳng chuyển, ai rung chẳng rời.”
Nhưng trong Kiều Thơ thì Từ Hải bị bắt sống.
Từ Hải còn hội thoại với quan Tổng đốc họ Hồ.
(Trích)
Hồ
Tôn Hiến nói:
“ Rằng: Nghe dũng trí hơn người
Lại
rành chữ nghĩa một thời bút nghiên,
Đã từng
học chữ Thánh hiền
Mà làm
thảo khấu cuồng điên thế này?
Từ
Hải đáp:
“Lạ gì
cái lũ quan dâm,
Miệng
hô Thiên tử dao đâm tim người,
Thuyền
rồng dỡn sóng xe chơi,
Một
phường ăn máu muôn đời dân đen.
Lập
công nấp váy kẻ hèn,
Cố kim,
sử sách ai khen bao giờ!”
Tôi không khỏi ngạc nhiên và tán phục Đỗ
Hoàng. Đây là sự sáng tạo rất Đỗ Hoàng nhằm hé lộ khoảng kín khiến chúng ta
phải suy nghĩ.
Khi sáng tạo ra Truyện Kiều, cụ Nguyễn Du
vì thời thế, vì hoàn cảnh lịch sử, Cụ chưa dịch hết, nay Đỗ Hoàng đã có công
phu phiên âm Hán Việt, dịch ra văn xuôi và dịch thơ đặng để chúng ta thêm tường
nội dung của Kim Vân Kiều truyện và
Truyện Kiều.
Ở nguyên bản tác phẩm Kim Vân Kiều truyện có
gần 1 000 câu thơ do Kiều viết 572 câu, Thúc Sinh viết 110 câu, Sở Khanh viết 8
câu, Giác Duyên viết 4 câu và 44 câu của Tống Ngọc. Còn rất nhiều thơ trong Kim
Vân Kiều truyện: luận về bạc mệnh, thơ trên cây, thơ vịnh, thơ thù tạc, thơ
viết ở cửa quan… Đỗ Hoàng dã dầy công phu phiên âm Hán Việt và dịch ra thơ. Đây
là ý tưởng mà cũng là sự thử sức bút lực của anh!
Tôi không bao giờ có hàm ý sao sánh hai
nhà thơ đều gốc miền Trung nước Việt. Họ đã cách nhau gần ba thế kỷ. Họ có sự
khác biệt về hoàn cảnh xã hội cũng như sự hạn chế của mỗi thời đại. Song các
tác giả có sự tương đồng - họ đều yêu quý tiếng Việt, họ đã có sự đóng góp tích
cực và làm phong phú cho tiếng Việt và nhân cách Việt. Đỗ Hoàng sinh giữa thế kỷ XX và đang sống ở
đầu thế kỷ XXI. Anh quê gốc Quảng Bình đã từng đi lính, làm giáo học trong quân
đội. Là bộ đội trực tiếp chiến đấu ở chiến trường. Đỗ Hoàng còn là nhà báo, nhà
thơ, nghe nói còn là nhà kinh tế nữa…
Hoàng đi rất nhiều nơi. Cuộc đời làm lính,
làm báo đã đưa bước chân anh từ địa đầu Tổ quốc đến chót mũi Cà Mau và những
hòn đảo xa xôi của đất Việt. Hoàng có sức học thật phong phú. Tiếng Nga một
chút, tiếng Pháp một chút, tiếng Anh một chút, Thái, Lào một chút… Riêng Hán
ngữ thì thật dồi dào. Hoàng đọc nhiêù. Anh là thi sỹ song cũng gần với giới
nghiên cứu phê bình…
Đỗ Hoàng thuộc nhiều âm tiết và tiếng địa
phương cùng với phong tục tập quán từng vùng, miền.
Trong bài thơ tứ tuyệt “Xuất tái – Ra ải)
của Vương Xương Linh thời Đường (Trung Quốc) có câu:
“Đãn
sử Long Thành phi tướng tại,
Bất
giao Hồ mã độ Âm Sơn.
Hoàng
dịch:
(Nếu
có tướng tài như Lý Quảng,
Âm
Sơn không có ngựa Hồ rê)
Chữ “rê” là chà xát – tiếng miền Trung dùng ở
hoàn cảnh này làm cho chất lượng bài thơ dịch nâng cao. Đỗ Hoàng đã kết hợp
được kiến thức sử và điển tích Trung Hoa và sự vận dựng tiếng địa phương một
cách nhuần nhuyễn thật là khéo!
*
Kiều Thơ của Đỗ Hoàng đã đem đến
cho ta một sự hứng thú và đặc biệt là tác giả đã dày công nghiên cứu, phiên âm
Hán Việt, dịch thơ cổ hoặc Đường thi mà bấy lâu chúng ta còn chưa biết
Công trình Kiều Thơ của Đỗ Hoàng âu cũng là
mượn xưa nói nay. Chúng ta sẽ được sáng tỏ khi đọc phần kết.
Nhưng ngọc còn tì vết nữa là…
Hơn 6 000 câu thơ lục bát của Kiều Thơ làm
sao tránh khỏi những câu còn ở dạng chưa gọt rũa. Diễn giãi đôi chỗ chưa thật
cô động
Không còn nghi ngờ gì nữa! Kiều Thơ là một
tác phẩm nghiêm túc. Nó đã chứng minh cho sức sống trường tồn của thể thơ lục
bát mà chỉ có dân tộc Việt ta mới có. Nó đóng góp cho ngôn ngữ suốt chiều dài
lịch sử đất nước với những phong tục tập quán với những nhân cách rất Việt Nam.
Hà Nôi tháng 9 năm 2010
N T T
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét